Thứ Tư, 29 tháng 1, 2020

Soạn bài Vợ nhặt lớp 12 - soanbaitap.com

Soạn bài Vợ nhặt lớp 12

Soạn bài Vợ nhặt thuộc: Tuần 21 SGK ngữ văn 12

Câu 3. Dựa vào nội dung truyện, hãy giải thích nhan đề Vợ nhặt. Qua tình huống trong truyện, hiểu gì về tình cảm và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói 1945?

1. Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm thành mấy đoạn? Ý chính của mỗi đoạn? Mạch truyện đã được dẫn dắt như thế nào?

Trả lời:

a. Tác phẩm có thể được chia thành bốn đoạn:

- Phần 1 (từ đầu đến tự đắc với mình) : Tràng đưa người vợ nhặt về nhà.

- Phần 2 (tiếp đến đẩy xe bò về): kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.

- Phần 3 (tiếp đến nước mắt chảy ròng ròng): Tình thương của người mẹ nghèo khó.

- Phần 4 (phần còn lại): niềm tin vào tương lai tươi sáng.

b. Mạch truyện

Mạch truyện đã được dẫn dắt một cách tự nhiên, hợp logic và gắn với truyện truyền thống (chủ yếu theo thời gian tuyến tính): tuy nhiên sự hấp dẫn nằm trong nghịch lí mang tính hài hước của truyện kể: giữa ngày đói kém, một anh cu Tràng "quá lứa", "dở hơi" đưa một người đàn bà "rẻ rúng" về làm vợ. Mạch truyện bắt đầu từ đó: sự kiện khôi hài này tất yếu gây ra những lời bàn tán hài hước và xót xa; rồi màn bi - hài kịch diễn ra trong nhà cụ Tứ. Cuối cùng tác giả đã tìm được lối thoát cho truyện: giữa những âm thanh của tiếng trống thúc thuế, dồn người ta đến bước đường cùng, hình ảnh lá cờ Việt Minh và đoàn người phá kho thóc của Nhật trong câu chuyện mơ hồ và xa xôi (Nghe đâu tận Thái Nguyên, Bắc Giang) xuất hiện và ám ảnh trong đầu óc của Tràng.

2. Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy Tràng đi cùng một người đàn bà lạ về nhà? Sự ngạc nhiên của các nhân vật trong truyện cho thấy nhà văn đã sáng tạo đưực tình huống truyện như thế nào? Tình huống đó có những tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa của thiên truyện?

Trả lời:

a. Người dân xóm ngụ cư và các nhân vật khác trong truyện như bà cụ Tứ, và cả bản thân Tràng đều đã ngạc nhiên vì Tràng có vợ giữa cảnh nạn đói đang đe dọa.

-   Tràng là một người có ngoại hình xấu, lời ăn tiếng nói cũng cộc cằn, thô kệch. Gia cảnh của Tràng nghèo khổ, lại là dần xóm ngụ cư (không có ruộng đất). Nguy cơ ế vợ đã rõ. Gặp nạn đói khủng khiếp, cái chết đang đeo bám, mọi người đều nghĩ đến lấy gì mà ăn để sống qua ngày, thì đột nhiên Tràng lại lấy vợ. Trong cảnh đói, Tràng "nhặt" được vợ là "nhặt" thêm một miệng ăn, cũng đồng thời là nhặt thêm tai họa cho mình. Vì vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.

-   Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên, cùng bàn tán, phán đoán rồi cũng nghĩ: "biết có nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không?" và họ cũng im lặng.

-   Bà cụ Tứ, mẹ Tràng lại càng ngạc nhiên hơn. Bà lão chẳng hiểu gì, rồi "cúi đầu im lặng" với nỗi lo riêng mà rất chung: "Biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?".

-   Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình. "Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn đang ngờ ngợ". Thậm chí sáng hôm sau Tràng vẫn chưa hết bàng hoàng.

b. Sự ngạc nhiên cho thấy tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vừa bất ngờ, vừa nghịch lí nhưng cũng vừa có lí.


- Người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, hơn hai triệu người chết đói, cái giá của con người thật rẻ rúng, người ta có thể "nhặt" được vợ một cách dễ dàng.

- Thế nhưng họ vẫn khát khao có được tổ ấm gia đình, vẫn hi vọng vào tương lai, ngay cả lúc đói khát, cận kề cái chết.

c. Qua tình huống đó, tác phẩm thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật.

-  Giá trị hiện thực: tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói.

-  "Nhặt vợ" là "nhặt" được hạnh phúc, nhưng khi nó không còn là hạnh phúc nữa mà trở thành cái khốn cùng của cuộc sống.

Cái đói quay quắt dồn đuổi đến mức người đàn bà chủ động gợi ý đòi ăn. Chỉ vì đói quá mà người đàn bà tội nghiệp này ăn luôn và "ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc". Chỉ cần vài lời nửa đùa nửa thật chị đã chấp nhận theo không Tràng. Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường, đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả thẹn. Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người.

-   Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc...

Điều mà Kim Lân muốn nói là trong bối cảnh bi thảm, giá trị nhân bản không mất đi, con người vẫn cứ vươn lên để tiếp tục sống, đế sinh con đẻ cái, để hướng tới tương lai. Người đàn bà đi theo Tràng đã chạy trốn cái đói, cái chết để hướng đến sự sống. Bà cụ Tứ, một bà lão luôn nói đến chuyện tương lai, chuyện sung sướng về sau, nhen lên niềm hi vọng cho con. Đặc biệt là nhân vật Tràng, giữa cảnh chết đói, anh ta vẫn lấy vợ, vẫn nghĩ đến tương lai và hạnh phúc. Đúng như tác giả đã nói, đại ý: những người nghèo khổ, ngay bên cạnh cái chết, họ vẫn không ngừng tìm đến hạnh phúc.

-   Về nghệ thuật: tình huống độc đáo khiến truyện phát triển dễ dàng và làm nổi bật được những cảnh đời, những thân phận con người bất hạnh, làm nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.

3. Dựa vào nội dung truyện, hãy giải thích nhan đề Vợ nhặt. Qua tình huống trong truyện, hiểu gì về tình cảm và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói 1945?

Trả lời:

-   Nhan đề Vợ nhặt có nghĩa là "nhặt được vợ" (không phải cưới hỏi theo phong tục).

-  Nhan đề truyện phản ánh thân phận con người bị rẻ rúng như rơm rác, có thể nhặt ở bất kì đâu, bất kì lúc nào. Người ta hỏi vợ, cưới vợ, còn ở đây Tràng "nhặt" được vợ. Đó thực chất là sự khốn cùng của hoàn cảnh.

4. Cảm nhận về niềm khát khao tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng, Kim Lân đã có những phát hiện tinh tế và sâu sắc như thế nào khi thể hiện niềm khát khao đó của nhân vật (lúc quyết định đế người đàn bà theo về, trên đường về xóm ngụ cư, buổi sáng đầu tiên có vợ,...).

Trả lời:

Niềm khát khao tổ ấm gia đình, cũng là khát khao hạnh phúc của nhân vật Tràng là khát khao mãnh liệt dẫu rất thô sơ, chất phác, hồn nhiên. Khát vọng đó đã vượt qua cả những nỗi lo âu, sợ hãi và toan tính trước nạn đói và trước cái chết.

-   Khi quyết định cho người đàn bà theo về, Tràng cũng liều lĩnh tặc lưỡi: "Chậc, kệ", cái tặc lưỡi của Tràng vừa là sự ngộ nghĩnh đơn sơ vừa mang được một nội dung tư tưởng: đó là thái độ mạnh mẽ và dứt khoát, dẫu rất bản năng và hài hước của một người lao động khốn khổ trước hai sự lựa chọn: hạnh phúc và nạn đói.

-   Trên đường về xóm ngụ cư, Tràng không cúi xuống lầm lũi như mọi ngày mà "phởn phơ", "vênh vênh ra điều". Trong phút chốc, Tràng quên tất cả tăm tối, "chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên" và cảm giác êm dịu của một anh Tràng lần đầu tiên đi cạnh cô vợ mới.

-  Buổi sáng đầu tiên có vợ, Tràng biến đổi hẳn "Hắn thấy bây giờ hắn mới nên người". Tràng thấy trách nhiệm và biết gắn bó với tổ ấm gia đình.

Sự sâu sắc của Kim Lân khi thể hiện niềm khát khao hạnh phúc của người nông dân khôn khổ là ở chỗ, ông đã cho ta thấy: người dân lao động, dẫu đứng trước cái chết vẫn luôn nghĩ tới cuộc sống và họ không ngừng tìm kiếm hạnh phúc. Đó là giá trị nhân bản sâu sắc nhất của thiên truyện.

5. Phân tích tâm trạng buồn vui lẫn lộn của bà cụ Tứ, qua đó anh chị hiểu gì về tấm lòng của bà mẹ nông dân này?

Trả lời:

-  Tâm trạng bà cụ Tứ: mừng, vui, xót, tủi. "Vừa ai oán, xừa xót thương cho số kiếp đứa con mình". Đối với người đàn bà thì "lòng bà đầy xót thương". Nén vào lòng tất cả, bà  dang tay đón người đàn bà xa lạ làm con dâu mình: "ừ, thôi thì các con phải duyên, phải số với nhau, u cũng mừng lòng".

-  Bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới, bà cụ Tứ đã nhen nhóm cho các con niềm tin, niềm hi vọng: "Tao tính khi nào có tiền mua lấy con gà về nuôi, chả mấy mà có đàn gà cho xem".

-  Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng xót xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương, nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương. Cũng chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai rất cụ thể thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn... Một tương lai khiến các con tin tưởng bởi nó không quá xa vời. Kim Lân đã khám phá ra một nét độc đáo khi để cho một bà cụ cập kề miệng lỗ nói nhiều với đôi trẻ về ngày mai.

6. Anh chị hãy nhận xét về nghệ thuật viết truyện của Kim Lân (cách kể chuyện, cách dựng cảnh, đối thoại, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ...).

Trả lời:

-   Cách kể chuyện tự nhiên, lôi cuốn, hấp dẫn.

-   Dựng cảnh chân thật, gây ấn tượng: cảnh chết đói, cảnh bữa cơm ngày đói...

-   Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, tự nhiên, chân thật.

-  Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với tính cách và thực tế đời sống.

Luyện tập

1. Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho anh chị? Vì sao?

HS suy nghĩ và tự trả lời câu này. Khi trả lời lí do yêu thích, cần bám sát và tôn trọng những cảm xúc của riêng mình; cũng có thể vận dụng những hiểu biết về giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm.

2. Phân tích ý nghĩa của đoạn kết thiên truyện.

Trả lời:

-   Đoạn kết là diễn biến tất yếu của mâu thuẫn nội tại của câu chuyện: người dân đang bị lâm vào cảnh chết đói còn nghe tiếng thống thúc thu thuế của chính quyền. Vì vậy, nhân vật như Tràng đã nghĩ đến lá cờ Việt Minh.

-   Đoạn kết còn thể hiện tư tưởng nhân đạo mới - nhân đạo cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng này không chỉ có thương xót, cảm thông với nạn nhân của chế độ xã hội, mà còn hướng tới việc để cho nạn nhân đấu tranh tự giải phóng mình. Đó cũng là quan điểm của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa (truyện được hoàn thành từ năm 1955, phân biệt với các tác phẩm hiện thực phê phán), theo đó các nhân vật, tính cách, hoàn cảnh... đều trong xu thế vận động đi lên, một sự vận động hướng tới tương lai tươi sáng hơn.

Soạn bài Vợ nhặt lớp 12 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 12 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 12. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 



#soanbaitap

Soạn bài Nhân vật giao tiếp lớp 12 - soanbaitap.com

Soạn bài Nhân vật giao tiếp lớp 12

Soạn bài Nhân vật giao tiếp thuộc: Tuần 20 SGK ngữ văn 12

1. Đọc ngữ liệu bài tập 1 (SGK, trang 18)

Trả lời:

a. Hoạt động giao tiếp trên có các nhân vật giao tiếp là: Tràng, mấy cô gái và "thị".  Các nhân vật có đặc điểm:

-  Về lứa tuổi: họ đều là những người trẻ tuổi.

-  Về giới tính: Tràng là nam, còn lại là nữ.

-  Về tầng lớp xã hội: họ đều là những người dân lao động nghèo đói.

b. Các nhân vật giao tiếp chuyển đổi vai người nói, vai người nghe và luân phiên như sau:

-   Lượt lời 1: Hắn (Tràng) là người nói, mấy cô gái là người nghe.

-   Lượt lời 2: Mấy cô gái là người nói, Tràng và "thị" là người nghe.

-   Lượt lời 3: "Thị" là người nói, Tràng (chủ yếu) và mấy cô gái là người nghe.

-   Lượt lời 4: Tràng là người nói, "thị" là người nghe.

-   Lượt lời đầu tiên của "thị" hướng tới Tràng.

c. Các nhân vật giao tiếp trên bình đẳng về vị trí xã hội (họ đều là những người dân lao động cùng cảnh ngộ).

d. Khi bắt đầu cuộc giao tiếp, các nhân vật giao tiếp trên có quan hệ hoàn toàn xa lạ. Nhưng sau đó họ nhanh chóng trở nên thân tình vì cùng lứa tuổi, cùng vị thế xã hội.

e. Những đặc điểm về vị thế xã hội, quan hệ thân - sơ, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp... chi phối lời nói của các nhân vật khi giao tiếp. Ban đầu chưa quen nên chỉ là trêu đùa thăm dò. Dần dần khi đã quen, họ mạnh dạn hơn. Vì cùng lứa tuổi, bình đẳng về vị trí xã hội, lại cùng cảnh ngộ nên các nhân vật giao tiếp tỏ ra rất suồng sã.

2. Đọc ngữ liệu bài tập 2 và trả lời câu hỏi (SGK, trang 19, 20)

Trả lời:

a. Các nhân vật giao tiếp trong đoạn văn: Bá Kiến, mấy bà vợ Bá Kiến, dân làng, Lí Cường và Chí Phèo.

Bá Kiến nói với một người nghe trong trường hợp quay sang nói với Chí Phèo, Lí Cường. Còn lại, khi nói với mấy bà vợ, với dân làng, Bá Kiến nói cho nhiều người nghe (trong đó có cả Chí Phèo).

b. Vị thế xã hội của Bá Kiến với từng ngườỉ nghe.

-  Với mấy bà vợ - Bá Kiến là chồng (chủ gia đình) nên "quát".

-  Với dân làng - Bá Kiến là "cụ lớn" thuộc tầng lớp trên, lời nói có vẻ tôn trọng (các ông, các bà) nhưng thực chất là đuổi (“Về đi thôi chứ! Có gì mà xúm lại thế này”).

-   Với Chí Phèo - Bá Kiến vừa là ông chủ cũ, vừa là kẻ đã đẩy Chí Phèo vào tù, kẻ mà lúc này Chí Phèo đến "ăn vạ". Bá Kiến vừa thăm dò, vừa dỗ dành vừa có vẻ đề cao, coi trọng.

-  Với Lí Cường - Bá Kiến là cha, cụ quát con nhưng thực chất cũng để xoa dịu Chí Phèo.

c. Đối với Chí Phèo, Bá Kiến thực hiện nhiều chiến lược giao tiếp:

-  Đuổi mọi người về để cô lập Chí Phèo.

-  Dùng lời nói ngọt nhạt đế vuốt ve, mơn trớn Chí Phèo. Anh Chí ơi! Rồi thân mật: cái anh này, tiếp đến là cách xưng hô như người trong nhà với ngôi thứ nhất số nhiều: ta (để phân biệt với người ngoài). Bên cạnh cách xưng hô là những lời nói nhẹ nhàng, khích lệ, động viên và hành động như người quen thân lâu ngày mới gặp.

-  Nâng vị thế Chí Phèo lên ngang hàng với mình để xoa dịu Chí. Để Chí Phèo không xem là đối địch, Bá Kiến đã nhận Chí Phèo là người nhà, là họ hàng. Cách nâng vị thế giao tiếp làm cho Chí Phèo hãnh diện vì được ngang hàng với gia đình danh giá nhất làng, chắng mấy chốc hắn quên mất ý định ban đầu.

d. Với chiến lược giao tiếp như trên, Bá Kiến đã đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp. Những người nghe trong cuộc hội thoại với Bá Kiến đều răm rắp nghe theo lời Bá Kiến. Đến như Chí Phèo, hung hãn là thế mà cuối cùng cũng bị khuất phục.

LUYỆN TẬP

1. Phân tích sự chi phối của vị thế xã hội ở các nhân vật đối với lời nói của họ trong đoạn trích (mục 1 - SGK)

Trả lời:

Anh Mịch

Ông Lí

Vị thế xã hội

Vị thế xã hội thấp (thuộc giai cấp bị trị, bị áp bức, bóc lột, bị o ép nhiều bề); ở đây là nạn nhân bị bắt đi xem bóng đá

Bề trên - Vai vê cao - là nguời đại diện cho chính quyền thực dân phong kiến ở làng, thuộc giai cấp thông trị. Thừa lệnh quan bắt người đi xem đá bóng

Lời nói

Van xin (gọi ông, lạy...) để khỏi phải đi xem bóng đá

Hách dịch, quát nạt (xưng hô mày tao, quát, lệnh....)

2. Phân tích mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế xã hội, nghề nghiệp, giới tính, văn hóa của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của từng người ở đoạn trích (SGK, trang 21, 22).

Trả lời:

Đoạn trích gồm các nhân vật giao tiếp,

a. Chú ý thái độ và lời nói của họ.

-  Viên đội sếp Tây: quát tháo

-   Chú bé con: thầm thì

-   Chị con gái: thốt ra

-  Anh sinh viên: kêu lên

-  Bác cu li xe: thở dài

Một nhà nho: lẩm bẩm.

HS suy nghĩ về vị thế xã hội để giải thích: vì sao viên đội sếp Tây lại có thể quát tháo dân chúng với những lời lẽ thô bỉ như vậy.

b. Xác định mối quan hệ giữa đặc điểm về vị thế xã hội, nghề nghiệp, giới tính, văn hóa của các nhân vật giao tiếp với đặc điểm trong lời nói của từng người:

-  Chú bé: trẻ con nên chú ý đến cái mũ, nói rất ngộ nghĩnh.

-   Chị em gái: phụ nữ nên chú ý cách ăn mặc (cái áo dài), khen với vẻ thích thú.

-   Anh sinh viên: đang học nên chú ý đến việc diễn thuyết, nói như một dự đoán chắc chắn.

-  Bác cu li xe: chú ý đến đôi ủng.

-   Nhà nho: người có trình độ nên chú ý đến tướng mạo, nói bằng một câu thành ngữ thâm nho

Kết hợp với ngôn ngữ là những cử chỉ điệu bộ, cách nói. Điểm chung là châm biếm, mỉa mai.

3. Đọc đoạn trích (mục 3 - SGK, trang 22), phân tích theo những câu hỏi.

Trả lời:

a. Quan hệ giữa bà lão hàng xóm và chị Dậu là quan hệ hàng xóm láng giềng thân tình. HS chú ý từ ngữ xưng hô:

-  Bà lão: bác trai, anh ấy...

-   Chị Dậu: cám ơn, nhà cháu, cụ...

b. Sự tương tác về hành động nói giữa lượt lời của hai nhân vật giao tiếp: Hai nhân vật đổi vai luân phiên.

- Bà lão hỏi thăm - chị Dậu cảm ơn.

- Bà lão hỏi về bệnh tình anh Dậu - chị Dậu trả lời tỉ mỉ.

- Bà lão mách bảo trốn đi - chị Dậu tán thành và nghe theo.

c. Nét văn hóa đáng trân trọng qua lời nói, cách nói của các nhân vật: tình làng nghĩa xóm, tôi lửa tắt đèn có nhau.

Soạn bài Nhân vật giao tiếp lớp 12 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 12 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 12. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 



#soanbaitap

Soạn bài Vợ chồng A Phủ lớp 12 - soanbaitap.com

Soạn bài Vợ chồng A Phủ lớp 12

Soạn bài Vợ chồng A Phủ thuộc: Tuần 19 SGK ngữ văn 12

Ấn tượng về tính cách nhân vật A Phủ. Bút pháp của nhà văn khi miêu tả Mị và nhân vật A Phủ có gì khác nhau.

1. Tìm hiểu số phận, tính cách nhân vật Mị qua:

- Cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống bị đày đọa tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.

- Diễn biến tâm trạng và hành động.

Trả lời:

a. Cảnh ngộ của nhân vật Mị:

-   Mị là con dâu gạt nợ của nhà Thống lí: cha mẹ nghèo, không trả được nợ (món nợ từ ngày cưới, lớn dần lên vì nặng lãi), Mị làm dâu gạt nợ cho cha mẹ.

-  Mị chỉ biết làm những công việc mà quanh năm ngày tháng làm đi làm lại,làm không ngưng nghỉ. Con trâu con ngựa nó còn có lúc đứng gãi chân nhai cỏ chứ đàn bà nhà này thì làm không nghỉ tay.

-  Mị sống trong một căn phòng chỉ có một ô vuông bằng bàn tay để nhìn ra ngoài cũng không thể biết được trời nắng hay mưa chỉ biết thấy mờ mờ trăng trắng.

b. Tâm trạng và hành động

Tâm trạng và hành động của Mị cho thấy, trong Mị có một sức sống tiềm tàng vẫn luôn âm ỉ, đó là khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc dẫu còn tự phát và bản năng. Khát vọng đó rất mãnh liệt và khi có cơ hội sẽ bùng phát.

-   Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị:

+ Đâu đó trong cõi sâu tâm hồn người đàn bà câm lặng vì cơ cực, khổ đau ấy vẫn tiềm tàng một cô Mị ngày xưa một cô Mị trẻ đẹp như đoá hoa rừng đầy sức sống, một người con gái trẻ trung giàu đức hiếu thảo. Ngày ấy, tâm hồn yêu đời của Mị được gửi vào tiếng sáo: "Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo".

+ Ở Mị, khát vọng tình yêu tự do luôn luôn mãnh liệt. Nếu không bị bắt làm con dâu gạt nợ, khát vọng của Mị sẽ trở thành hiện thực bởi "trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị", Mị đã từng hồi hộp khi nghe tiếng gõ cửa của người yêu. Mị đã bước theo khát vọng của tình yêu nhưng không ngờ sớm rơi vào cạm bẫy.

+ Bị bắt về nhà thống lí, Mị định tự tử. Mị tìm đến cái chết chính là cách phản kháng duy nhất của một con người có sức sống tiềm tàng mà không thể làm khác trong hoàn cảnh ấy. "Mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc". Mị trốn về nhà cầm theo một nắm lá ngón. Chính khát vọng được sống một con người đúng nghĩa c khiến Mị không chấp nhận cuộc sống bị chà đạp,  bị đối xử bất công như một con vật.

Tất cả những phẩm chất trên đây sẽ là tiền đề, là cơ sở cho sự trỗi dậy của Mị sau này.  Chế độ phong kiến nghiệt ngã cùng với tư tưởng thần quyền có thể giết chết mọi ước mơ, khát vọng, làm tê liệt cả ý thức lẫn cảm xúc con người nhưng từ trong sâu thẳm, bản chất người vẫn luôn tiềm ẩn và chắc chắn nếu có cơ hội sẽ thức dậy, bùng lên.

-   Sự trỗi dậy của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc ở Mị:

Những yếu tố tác động đến sự hồi sinh của Mị:

+ "Những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe như bướm sặc sỡ, hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ au, đỏ thậm rồi sang màu tím man mác".

+ "Đám trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà"

+ Rượu là chất xúc tác trực tiếp để tâm hồn yêu đời, khát sống của Mị trỗi dậy. "Mị đã lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một". Mị vừa như uống cho hả giận vừa như uổng hận, nuốt hận. Hơi men đã dìu tâm hồn Mị theo tiếng sáo.

 + Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng.

"Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang hỏi". "Ngày trước Mị thổi sáo giỏi... Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng như thổi sáo", "Tai Mị vang tiếng gọi bạn đầu làng", "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường", "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi", "trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo"...

-  Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân:

+ Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ, nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại: "Mị còn phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm đến ngày trước". "Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi". Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình: "Nếu có nắm lá ngón trong tay Mị sẽ ăn cho chết"...

+ Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động "lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu". Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.

+ Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị "quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách".

+ Mị đang chuẩn bị sắm sửa để đi chơi nhưng rồi bị A Sử cấm cho đi chơi hắn cột Mị vào nhà cột cả tóc lên khiến Mị không ngẩng đầu lên được đó là một hành động mất hết nhân tính, Mị vẫn đang du mình trong đêm xuân những tiếng ngựa ngoài kia làm cho Mị tỉn giấc nàng đã trở lại với hiện tại, một hiện tại đau khổ và phải chịu đau thương cả về thể xác lẫn tinh thần.c. Tâm trạng và hành động của MỊ trong hoàn cảnh cởi trói cứu A Phủ và chạy trốn theo A Phủ.

- Diễn biến tâm lí trong đêm đông:

+   Trước cảnh A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn vô cảm: "Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay", vì những cảnh tượng ấy đã diễn ra trong nhà Thông lí thường xuyên.

+  Nhưng "Mị lé mắt trông sang... một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại", giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã giúp Mị nhớ lại mình, nhận ra mình, xót xa cho mình và thương người đồng cảnh. Lòng thương người trắc ẩn và tình giai cấp đã khiến Mị có hành động mạnh bạo: cắt dây cởi trói cứu A Phủ.

+   Hệ quả tất yếu là Mị phải chạy trốn theo A Phủ, vì Mị biết: "ở đây thì chết mất".

+   Cắt dây cởi trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài của Mị là hành động vùng dậy tự phát của người nô lệ miền núi cao Tây Bắc, phản ứng lại đối với sự cai trị tàn bạo của bọn thống trị, nhằm mục đích tự giải phóng.

2. Ấn tượng về tính cách nhân vật A Phủ. Bút pháp của nhà văn khi miêu tả Mị và nhân vật A Phủ có gì khác nhau.

Trả lời:

a. Tính cách nhân vật A Phủ qua các tình huống:

- A Phủ mang tính cách ham chuộng tự do, một sức sống mãnh liệt, một tài năng lao động đáng quý: "biết đúc lưỡi, đúc cuốc, cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do, hồn nhiên, chất phác.

-  A Phủ là một người mạnh mẽ, gan góc:  chạy vụt ra, vung tay ném con quay, xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo, xé, đánh tới tấp. Hành động mạnh mẽ, quyết liệt ấy đã bộc lộ lòng căm thù kẻ cậy thế hống hách, yêu chuộng công lí và tính cách can trường, bất khuất.

-   Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt tuôn ra các lỗ cửa sổ như khói bếp. "Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong lần lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Cứ thế từ trưa đến hết đêm". Còn A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.

Hủ tục và pháp luật trong tay bọn chúa đất nên kết quả: A Phủ trở thành con ở trừ nợ đời đời kiếp kiếp cho nhà thống lí Pá Tra. Cảnh xử kiện lạ lùng và cảnh A Phủ bị đánh, bị trói vừa tố cáo sự tàn bạo của bọn chúa đất vừa nói lên tình cảnh khốn khổ của người dân.

b. Bút pháp miêu tả nhân vật

- Nhân vật Mị:

+ Nghệ thuật so sánh; Thủ pháp vật hóa làm nổi bật, cực tả cuộc đời Mị: kiếp người là kiếp vật của Mị.

+ Cách sử dụng hình ảnh ẩn dụ độc đáo (căn buồng Mị ở) nói lên số phận bất hạnh của Mị.

- Nhân vật A Phủ: được tác giả khắc họa chủ yếu qua chuỗi hành động để từ đó làm bật lên tính cách táo bạo, gan góc và tinh thần phản kháng của chàng trai miền núi có tâm hồn yêu tự do, phóng khoáng.

3. Những nét độc đáo về việc quan sát và miêu tả nếp sinh hoạt, phong tục tập quán của người dân miền núi. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ tác phẩm.

Trả lời:

-  Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề...).

-  Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.

-  Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lí; dẫn dắt những tình tiết đan xen kết hợp một cách khéo léo tạo sức lôi cuốn.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. Mỗi nhân vật được sử dụng bút pháp khác nhau để khắc họa tính cách khác nhau trong khi họ có số phận giống nhau. Tác giả tả ngoại hình, tả tâm lí với dòng kí ức chập chờn, những suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả ngoại hình, hành động và những mẫu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn.

-  Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.

Luyện tập: Qua số phận nhân vật Mị và A Phủ, hãy phát biểu ý kiến về giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Trả lời:

Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện qua các khía cạnh sau.

-   Sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với những cảnh ngộ của người dân miền núi cao Tây Bắc.

-   Phát hiện sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do và hạnh phúc trong những con người nô lệ như Mị.

-   Ca ngợi tình cảm đồng loại, tình cảm giai cấp trong những con người bị áp bức.

-   Giúp nhân vật tìm đường đến với cách mạng và kháng chiến.

Soạn bài Vợ chồng A Phủ lớp 12 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 12 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 12. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 

 

 

 



#soanbaitap

Soạn bài Luyện tập viết bài làm văn số 5 lớp 12 - soanbaitap.com

Soạn bài Luyện tập viết bài làm văn số 5 lớp 12

Soạn bài Luyện tập viết bài làm văn số 5 thuộc: Tuần 19 SGK ngữ văn 12

Đề 2: Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: "Phong cách chính là người". Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?

Đề 1. Một trong những bức thư luận bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết: "Văn chương [...] có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Anh chị hãy phát biểu ý kiến của mình về quan niệm trên.

Gợi ý:

Học sinh xác định được:

a.      Thể loại bài viết: nghị luận văn học.

b.      Đề bài yêu cầu bàn luận về vấn đề sứ mệnh của văn chương. Có hai khuynh hướng văn chương phổ biến: loại văn chương coi trọng nghệ thuật đơn thuần, nhấn mạnh tính nghệ thuật mà coi nhẹ vai trò phản ánh và cải tạo cuộc sống; một loại văn chương lấy cuộc sống con người làm đối tượng phụng sự. Nguyễn Văn Siêu, một nhà phê bình văn học cổ đánh giá cao loại văn chương thứ hai (đáng thờ).

-    Lí giải:

+ Văn chương chuyên chú ở văn chương: Đó là loại văn chương chỉ biết có nó, tức là coi hình thức nghệ thuật là trên hết, nhà văn khi sáng tác chỉ chăm lo cái đẹp của hình thức, không mấy chú ý đến nội dung tư tưởng và không quan tâm đến đời sống,vân mệnh con người.

+ Văn chương chuyên chú ở con người: Đó là loại văn chương quan tâm trước hết đến cuộc sống con người vì con người, coi giá trị chủ yếu của văn chương ở chỗ nó có ích cho cuộc đời.

-    Vì sao loại đáng thờ là loại "Chuyên chú ở con người" chứ không phải loại "Chuyên chú ở văn chương"?

Tác giả muốn nói đến chân giá trị của văn chương . Nếu văn chương không quan tâm đến con người thì văn chương sẽ tự đánh mất mình. Áng văn hay phải là áng văn tâm huyết của người cầm bút. Cái tâm thường nuôi dưỡng, phát huy cái tài.

-   Bình luận, chứng minh: những tác phẩm lớn từ xưa đến nay chưa bao giờ thoát li cuộc sống con người. Các tác phẩm đó đều lấy hiện thực của đất nước, dân tộc, nhân loại đế phản ánh và đấu tranh cho những quyền lợi của dân tộc, của nhân dân. Ví dụ:

+ Hịch tướng sĩ (Trần Quôc Tuấn) thuyết phục các tướng sĩ bỏ việc vui chơi, chăm lo việc quân cơ, đánh giặc giữ nước.

+ Bài Cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) phản ánh, tổng kết, ngợi ca cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống lại xâm lăng của giặc Minh và tuyên bố chủ nghĩa của dân tộc ta, khai sinh một đât nước - một triều đại mới

+ Truyện Kiều (Nguyễn Du) là tiếng kêu đứt ruột, cũng là tiếng nói đấu tranh cho quyền sông của những con người bị áp bức nói chung trong xã hội phong kiến.

Những tác phẩm ấy chưa bao giờ rời xa quyền lợi của nhân dân, của dân tộc và sự tiến bộ của nhân loại.

-  Tuy nhiên, nghệ thuật chuyên chú ở con người không có nghĩa là không coi trọng tính nghệ thuật, cần phải đảm bảo tính nghệ thuật mới thì mới có giá trị, có sức thuyết phục cao.

Đề 2: Buy-phông, nhà văn Pháp nổi tiếng, có viết: "Phong cách chính là người". Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào?

Gợi ý:

Học sinh xác định được:

a. Thể loại bài viết: Nghị luận văn học.

b. Nội dung: Đề yêu cầu bàn về phong cách văn chương. Theo bài học (tuần 15) phong cách được định nghĩa là nét riêng, độc đáo của nhà văn, được biểu hiện qua góc nhìn, cách nhìn, cách khám phá của mỗi nhà văn. Theo Buy - phông, đó chính là con người nhà văn, không thể lẫn với con người nào khác.

-   Lí giải: phong cách là gì? Phong cách chính là nét độc đáo và phần đóng góp riêng của nhà văn cho đời sống văn học.

- Phong cách bao gồm cả phương diện nội dung và nghệ thuật:

   + Độc đáo về nội dung thể hiện ở quan niệm về cuộc sống và con người từ việc lựa chọn đề tài, xác định chủ đề, cách lí giải những vấn đề về cuộc sống và con người ... .

   + Độc đáo về nghệ thuật thể hiện ở phương thức biểu hiện, ở việc lựa chọn các thủ pháp nghệ thuật, tổ chức kết cấu, sử dụng ngôn ngữ ... .

=>   Buy - phông đã nhấn mạnh cá tính của mỗi nhà văn trong sáng tạo văn học.

-  Học sinh tự chứng minh qua phong cách của một số nhà văn lớn: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Tố Hữu, Nguyễn Tuân...

Đề 3: Anh (chị) hãy bày tỏ quan điểm của mình về ý kiến của nhà văn Pháp La Bơ-ruy-e: "Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa: đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra".

Gợi ý:

Học sinh xác định được:

a. Thể loại bài viết: Nghị luận văn học.

b. Nội dung: Tiêu chí để đánh giá một tác phẩm hay, theo La Bơ-ruy-e, là giá trị giáo dục của tác phẩm đó.

- Giải thích nhận định: Tiêu chí để đánh giá một tác phẩm hay, theo La Bơ-ruy-e, là giá trị giáo dục của tác phẩm đó.

- Giá trị giáo dục của tác phẩm:

+ Nâng cao tinh thần

+ Gợi ra những tình cảm cao quý và can đảm.

- Học sinh tự tìm dẫn chứng phù hợp ở các tác phẩm đã học để chứng minh cho nhận định.

Soạn bài Luyện tập viết bài làm văn số 5 lớp 12 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 12 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 12. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 

 

 



#soanbaitap

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2020

Tóm tắt phóng sự Góc chiếu giữa đình trong tác phẩm Việc làng của Ngô Tất Tố lớp 11 - soanbaitap.com

Tóm tắt phóng sự Góc chiếu giữa đình trong tác phẩm Việc làng của Ngô Tất Tố lớp 11

Tóm tắt phóng sự Góc chiếu giữa đình trong tác phẩm Việc làng của Ngô Tất Tố thuộc: Bài 34 SGK ngữ văn 11

Năm ngày sau cuộc ăn khao, vợ ông Luỹ với dáng điệu không vui cắp nón đi ra cổng làng để sang Hà Nội làm vú già. Bà Cựu cho tác giả biết: gần mẫu ruộng và nửa con trâu đã bán hết cả, lại còn nợ thêm hơn bảy chục đồng nữa.

     Ông Luỹ người làng Đ.Tr. rất thật thà, chăm chỉ. Mười lăm năm trước đây, ông còn làm nghề cày thuê, vợ ông đi ở vú sữa. Nhờ tiết kiệm mà ngày nay vợ chồng ông đã có gần mẫu ruộng và nửa con trâu, lên đến bậc có máu mặt, lưng vốn. Trong mấy năm nay, vợ ông không còn sữa, ông cũng không được khỏe mạnh nên cả hai vợ chồng đều tự hưu trí để cùng trông nom ruộng nương nhà cửa. Nhờ trời, hồi ấy được mùa luôn, trong chuồng lúc nào cũng có lợn lớn, thóc lúa đủ ăn từ vụ nọ đến vụ kia.

   Tuy đã ngoài năm chục tuổi, nhưng chỗ ngồi trong đình làng ông vẫn phải ngồi vào lớp cuối cùng với bọn bố cu bố đĩ hạng bạch đinh. Mấy lần, ông định mưu lấy chút danh phận chạy chức lí trưởng, phó lí nhưng vì không biết chữ nên không được như nguyện.

   Năm nay, mái đình làng bị dột mấy chỗ nhưng quỹ làng không còn để mua ngói. Các ông kì địch trong làng bèn mời ông Luỹ ra đình để bán cho ông cái chức lí cựu với giá một trăm đồng bạc để chi tiêu vào việc tu bổ. Lúc đầu ông cũng phân vân vì cái của "không tân mù cựu" sẽ không được ai qúy trọng, nhưng về sau nghe bọn lí dịch nói rất bùi tai, nào là chỉ tốn trăm bạc mà được ngồi ngang với lí trưởng phó lí, nào là được ăn biếu ăn xén như ai, nên cuối cùng ông cũng cho là có lí. Vợ ông cũng muốn làm bà Cựu, nên khuyên ông cố lo.

   Ông Luỹ bán ruộng, bán trâu được hơn trăm bạc nộp cho làng. Công việc mười phần đã xong chín phần, chỉ còn khao làng một bữa thì sẽ thành danh ông Cựu. Ý ông định hoãn đến tháng mười có lúa gạo, nhà đỡ phải vay mượn mất lãi, nhưng bọn lí dịch không nghe vì để lâu không tiện, dân làng đã vậy, còn quỷ thần.

   Cái áo còn lo được, huống chi cái dải! Ông Lũy cố mua bát họ hơn sáu chục để lo chuyện ăn khao.

   Ông chỉ có bốn gian một chái nhà tranh nên phải dựng rạp, số người kéo đến giúp đáp rất đông. Buổi chiều dựng rạp, ông phải mổ con lợn bảy yến làm năm chục mâm cỗ, chỉ ăn một lượt là hết. Sáng hôm sau lại phải giết tiếp ba con Mit nữa: hai con để làm cỗ đãi họ hàng, một con để đem lễ thờ rồi biếu dân làng. Ông còn phải mổ vài ba con lợn nữa để mời các lão và tư văn vào buổi chiều...

   Từ cổng tới nhà, bát đĩa mâm nồi bày la liệt khắp nơi. Trong rạp đông nghịt những người. Ngoài số tay dao tay thớt còn có ba bàn tổ tôm và bốn bàn thuốc phiện.

   Sau bọn tư văn kéo đến là các bô lão... Cuộc linh đình kéo dài mãi đến sáng hôm sau.

   Năm ngày sau cuộc ăn khao, vợ ông Luỹ với dáng điệu không vui cắp nón đi ra cổng làng để sang Hà Nội làm vú già. Bà Cựu cho tác giả biết: gần mẫu ruộng và nửa con trâu đã bán hết cả, lại còn nợ thêm hơn bảy chục đồng nữa.

Tóm tắt phóng sự Góc chiếu giữa đình trong tác phẩm Việc làng của Ngô Tất Tố lớp 11 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 11 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 11. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 

 

 

 



#soanbaitap

Thứ Tư, 15 tháng 1, 2020

Đọc hiểu Tống biệt hành lớp 11 - soanbaitap.com

Đọc hiểu Tống biệt hành lớp 11

Đọc hiểu Tống biệt hành thuộc: Bài 35 SGK ngữ văn 11

- Gợi dẫn 1. Thâm Tâm (1917 – 1950) tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương) trong một gia đình nhà giáo nghèo. Khoảng năm 1938, Thâm Tâm cùng gia đình lên Hà Nội kiếm sống bằng vẽ tranh và bắt đầu làm thơ, viết văn

Gợi dẫn:

1. Thâm Tâm (1917 – 1950) tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương) trong một gia đình nhà giáo nghèo. Khoảng năm 1938, Thâm Tâm cùng gia đình lên Hà Nội kiếm sống bằng vẽ tranh và bắt đầu làm thơ, viết văn

   Thâm Tâm viết không nhiều nhưng sáng tác nào cũng độc đáo, mang dấu ấn riêng. Thơ Thâm Tâm thường có giọng điệu trầm hùng, bi tráng. Tống biệt hành là một ví dụ cụ thể.

2. Tống biệt hành là bài thơ duy nhất của Thâm Tâm được hai nhà nghiên cứu Hoài Thanh và Hoài Chân chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam – tuyển tập những tác phẩm tiêu biểu của phong trào thơ mới. Chỉ với một tác phẩm ấy thôi nhưng người ta không thể không nhắc đến Thâm Tâm khi nói về thơ mới. Bài thơ không chỉ có một âm điệu lạ, hình ảnh thơ độc đáo và cách thể hiện tâm trạng tinh tế mà còn có giá trị tư tưởng rất lớn. Giữa lúc lớp thanh niên trí thức đang rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan vì không xác định được con đường đi của mình thì Thâm Tâm lại xây dựng một hình tượng đẹp về người thanh niên đã tìm ra lí tưởng và quyết tâm vượt lên những tình cảm mềm yếu để ra đi thực hiện “chí nhớn”.

3. Bài thơ chia làm bốn khổ và có sự xuất hiện hai nhân vật trữ tình: ta – người đưa tiễn và người – người ra đi. Tư thế và tâm trạng của người ra đi chủ yếu được thể hiện qua cảm nhận của người đưa tiễn. Hình tượng nghệ thuật xuyên suốt bài thơ là hình tượng người tráng sĩ. Đó là một tráng sĩ vừa có chí lớn với một quyết tâm ra đi thực hiện chí lớn rất cao, vừa có một tình cảm thương yêu sâu sắc với gia đình và bạn bè. Đây là hình tượng mang vẻ đẹp lí tưởng của con người : có lí tưởng cao đẹp và tình cảm sâu sắc. Kết cấu của bài thơ cũng khá đặc biệt theo cảm nhận của chủ thể trữ tình – người đưa tiễn :

- Đoạn 1: Cảnh và tâm trạng cuộc chia tay.

- Đoạn 2: Chí nhớn và quyết tâm thực hiện chí nhớn của người ra đi.

- Đoạn 3: Tâm trạng và tình cảm của người ra đi đối với gia đình, người thân.

   Tất cả đều là cảm nhận của người đưa tiễn – bạn tri kỉ của người tráng sĩ ra đi.

4. Đọc chậm diễn tả nội tâm nhân vật trữ tình. Nhấn giọng các điệp từ điệp ngữ. Khổ thơ cuối đọc giọng thổn thức, chậm hơn và xuống giọng.

II - Kiến thức cơ bản

   Viết Tống biệt hành, Thâm Tâm đã tiếp thu thể tài của thơ cổ và thổi vào đó hơi thở nồng nàn của thời đại. Đề tài “Tống biệt” (chia li và tiễn đưa) và thể hành thường xuất hiện trong văn học xưa. Với những sáng tạo độc đáo, Thâm Tâm đã tạo nên một giọng thơ rất riêng trong làng thơ mới – giọng thơ “Vừa trang trọng vừa cổ kính, vừa mới mẻ hiện đại, vừa rắn giỏi gân guốc, vừa mang nỗi niềm bâng khuâng khó hiểu của một thời đại” như nhà nghiên cứu Hoài Thanh đã nhận xét. Đồng thời qua bài thơ, Thâm Tâm đã thể hiện một tư tưởng tiến bộ và có ý nghĩa quan trọng đối với văn học đương thời. Giữa lúc lớp thanh niên trí thức đang rơi vào tâm trạng bế tắc, bi quan vì không xác định được con đường đi của mình thì Thâm Tâm lại xây dựng một hình tượng đẹp về người thanh niên đã tìm ra lí tưởng và quyết tâm vượt lên những tình cảm mềm yếu để ra đi thực hiện “chí nhớn”.

   Bài thơ có bố cục bốn đoạn, lần lượt miêu tả tâm trạng của người đưa tiễn trong giờ phút chia tay, tư thế của người ra đi và tình cảm của gia đình trước cuộc chia li. Điểm đặc biệt của bài thơ là mạch cảm xúc có sự lồng ghép cảm xúc của hai nhân vật trữ tình. Có một nhân vật trữ tình xuyên suốt bài thơ, đó là người đưa tiễn và tâm trạng, tư thế của người ra đi (chủ yếu được thể hiện qua cảm nhận của người đưa tiễn). Theo lời một số bạn cũ của Thâm Tâm, thì bài thơ được viết khi nhà thơ tiễn bạn lên chiến khu. Bài thơ đã thể hiện được một tư tưởng tiến bộ và hiện đại. Cấu tứ của bài thơ là chia tay và hồi tưởng, miêu tả tâm trạng để thể hiện lí tưởng.

   Nếu đặt trong trình tự lôgíc hiện thực thì khổ thơ mở đầu là thời điểm cuối của cuộc tiễn đưa. Vì vậy bao nỗi buồn của mẹ, của chị, của em, của người đưa, người tiễn, bao nỗi buồn của chiều hôm trước, của sáng hôm nay đều dồn tất cả trong khổ thơ này. Bao trùm bốn câu thơ không phải là cảnh mà là tâm trạng. Hai câu thơ đầu thể hiện không gian tâm trạng của cuộc đưa tiễn:

   Đưa người ta không đưa qua sông

   Sao có tiếng sóng ở trong lòng

   Vì là không gian tâm trạng nên không gian mơ hồ, thiếu sự xác định cụ thể. Cuộc tiễn đưa không diễn ra bên bờ sông nhưng vẫn “có tiếng sóng” với hình ảnh ẩn dụ “sóng lòng”. ở đây vừa tiếp nối ý thơ của người xưa mà có những sáng tạo riêng đặc sắc. Tiếp nối thơ xưa khi nói về cuộc đưa tiễn thường mượn hình ảnh dòng sông con đò để gợi đôi bờ li biệt. Đỗ Phủ khi tiễn bạn lên đường làm việc nghĩa, lòng người đi kẻ ở đầy thương nhớ cũng mượn hình ảnh dòng sông để thể hiện tâm trạng:

   Gạt dòng lệ lúc trên sông tiễn bước

   Trời cao man mác nghĩ buồn thay

   Thâm Tâm chỉ mượn ý thơ của người xưa là chia li phải có dòng sông, có đôi bờ li biệt nhưng ở đây dòng sông được tạo nên bởi ảo giác chứ không phải sông thật nên sóng cũng là “sóng lòng”. Cái hay của hình ảnh “sóng lòng” là ở chỗ cuộc chia li không diễn ra ở ngoại cảnh mà diễn ra ở trong tâm cảnh. Chính lòng người mang một dòng sông li biệt, chính lòng người đã phải làm một cuộc tiễn đưa. Tâm trạng của người trong cuộc tiễn đưa còn gợi lên từ nhạc điệu câu thơ, câu thơ mở đâu toàn thanh bằng, câu thơ thứ hai đột ngột nổi lên một số vần trắc “có tiếng sóng ở …” tạo cảm giác lòng người như đang nổi sóng, như có tiếng sóng thật và nghe trong tiếng sóng như thấy cả hơi lạnh của gió sông. Hai câu tiếp theo thể hiện tâm trạng của cuộc tiễn đưa:

   Bóng chiều không thắm, không vàng vọt

   Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

   Thời gian cũng là thời gian tâm trạng nên vừa như xác định (bóng chiều) vừa như mơ hồ (không thắm không vàng vọt). Xác định bởi cuộc chia tay diễn ra trong buổi chiều nhưng buổi chiều ấy lại mơ hồ vì “bóng chiều không thắm không vàng vọt”. Thời gian thiếu sự xác định, thiếu một đường viền cụ thể để tăng thêm phần bâng khuâng da diết. Nếu chỉ “vàng vọt” thì thật buồn và đó sẽ là cuộc li biệt mà cả hai đều không muốn xảy ra. Nhưng nếu “thắm” thì lại vui quá. Không phải là không khí chia tay. Nhà thơ đã diễn tả thật chính xác và tinh tế bản chất của cuộc li biệt này. Người ra đi là tự nguyện, ra đi vì lí tưởng đúng đắn nên không thể buồn ảo não, phải vui và hi vọng vì đã có được lí tưởng để hướng tới. Nhưng đã là chia li thì cuộc chia tay nào cũng buồn. Vừa vui, vừa buồn là tâm trạng chung của những cuộc chia tay có lí do tốt đẹp. Bốn khổ thơ đầu đã thể hiện một cách kín đáo nhưng đầy đủ về tính chất và chân thực về tâm trạng của cuộc đưa tiễn. Đó là cuộc chia tay giữa hai người bạn chân thành, tri âm tri kỉ.

   Đặt cuộc chia tay trong khung cảnh buổi chiều, tác giả vừa tiếp nối truyền thống thơ cổ vừa có những sáng tạo riêng. Thơ cổ khi viết về cuộc chia tay thường mượn buổi chiều để thể hiện tâm trạng. Lí Bạch đưa tiễn bạn cũng mượn hình ảnh bóng chiều để bày tỏ nỗi niềm :

   Chia tay khác cả mối lòng

   Người như mây nổi, kẻ trông bóng tà.

   Mượn tứ thơ xưa nhưng không phụ thuộc vào người xưa, Thâm Tâm vẫn có những sáng tạo riêng của mình. Sáng tạo đó là hình ảnh ẩn dụ “hoàng hôn trong mắt trong”, là cách diễn đạt vừa cụ thể vừa lãng mạn hoá nỗi buồn chứa đầy trong tâm trạng. Câu thơ có cách sử dụng từ tinh tế, chính xác. ở câu ba tác giả dùng từ bóng chiều, đến câu thơ thứ tư “bóng chiều” đã thành “hoàng hôn” gợi lên cả sự chuyển biến của thời gian. Và nếu “bóng chiều” nghiêng về sắc thái thời gian thì “hoàng hôn” lại nghiêng về sắc thái tâm trạng. Chữ đầy trong câu thơ “Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong ?” là tính từ đã được động từ hoá đem lại sự cảm nhận nỗi buồn đã dâng đầy từ trái tim lên ánh mắt để rồi thấm đẫm cả buổi chiều li biệt. Hình ảnh “đầy hoàng hôn trong mắt trong” gợi dáng vẻ bề ngoài cố làm như thản nhiên nhưng trong tâm trạng lại đầy uẩn khúc. Hai chữ trong (trong mắt trong) mang hai chức năng ngữ pháp khác nhau, một là trạng từ (trong mắt), một là tính từ (mắt trong) nhưng đều có tác dụng tạo âm hưởng tha thiết. Bốn câu thơ với hai câu hỏi tu từ (Sao có ? Sao đầy ?) và một loạt điệp âm (không đưakhông thắm, không vàng vọt) tạo nên cấu trúc chặt chẽ, vừa rắn rỏi, vừa tha thiết. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật phủ định để khẳng định, nói không để khẳng định có : có nỗi niềm bâng khuâng thương nhớ. Khổ thơ sử dụng nhiều vần ong, có tới mười bốn vần (khôngsôngsónglòngtrong…) tạo nên âm hưởng hình ảnh những con sóng lòng đầy xáo động xao xuyến.

   Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,

   Một giã gia đình, một dửng dưng….

 

   - Li khách ! Li khách ! Con đường nhỏ,

   Chí nhớn chưa về bàn tay không,

   Thì không bao giờ nói trở lại!

   Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

   Bài thơ có hai nhân vật là nhân vật “ta” tức là người đưa tiễn và người ở lại, nhân vật thứ hai là “người” tức là li khách, người lên đường vì “chí nhớn”. Người ở lại được xem là hình tượng tác giả, là chữ ta trong toàn bài thơ. Hai nhân vật kẻ ở lại và người ra đi cùng tồn tại trong suốt bài thơ, vì thế khám phá tâm trạng li khách có mối quan hệ gắn bó mật thiết với tình cảm nhân vật “ta”. Tác giả tập trung khắc hoạ hình tượng và tâm trạng li khách vì thế nhân vật càng ngày càng hiện lên cụ thể, sinh động, toàn vẹn. Vẻ bề ngoài li khách tỏ ra dửng dưng lạnh lùng, gạt phăng những tình cảm riêng tư, kiên quyết dứt khoát lên đường, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng trong lòng thì đầy tâm sự. Nhằm tô đậm và làm nổi bật ý chí của li khách, tác giả cường điệu hoá :

   Chí nhớn chưa về bàn tay không,

   Nhưng đối lập với con người bên ngoài cố tỏ vẻ cứng cỏi lạnh lùng, trong lòng người li khách đầy dằn vặt, day dứt, lưu luyến đau khổ khi phải ra đi. Tâm sự đó được khéo léo thể hiện qua cảm nhận của người bạn tri âm:

   Ta biết người buồn chiều hôm trước…

   Ta biết người buồn sáng hôm nay…

   Thì ra nỗi buồn của li khách cũng dằng dặc theo thời gian, đó là nỗi lo lắng, thương yêu của người ra đi với gia đình :

   Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,

   Một chị, hai chị cũng như sen,

   Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

   Hình ảnh so sánh “Một chị hai chị cùng như sen – Khuyên nốt em trai dòng lệ sót” trong bài thơ đã gợi rất nhiều liên tưởng khác nhau. Trước hết nó thể hiện nỗi lo của người ra đi về hai người chị, vừa để nhấn mạnh sự níu giữ bằng mọi cách của người ruột thịt. Hai từ nốt trong bốn câu thơ như là hi vọng cuối cùng của người chị đối với người em. Họ muốn người em không ra đi hoàn toàn vì tình yêu thương, bởi lẽ họ chưa thể hiểu hết lí tưởng của người li khách. Li khách bị níu giữ từ mọi phía: mẹ già, hai chị yếu đuối tội nghiệp và cả đứa em nhỏ ngây thơ, họ đã can anh đến hết lời, họ đã khóc đến cạn nước mắt. Mẹ già thì mong nhớ, em nhỏ thì buồn thương. Hình ảnh:

   Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

   Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

   Như xoáy sâu vào trái tim người ra đi, hình ảnh em nhỏ ngây thơ là sự níu giữ mạnh nhất đối với người ra đi. Tác giả cố ý tô đậm sự níu giữ của người thân để bộc lộ mâu thuẫn giữa vẻ ngoài và tâm trạng bên trong của li khách. Tuy mâu thuẫn nhưng nhất quán, nhất quán ở chỗ tác giả vừa tô đậm chí nhớn vừa bộc lộ tình cảm sâu sắc của li khách, li khách càng bị níu giữ thì vẻ đẹp ý chí càng hiện rõ, li khách càng day dứt dằn vặt càng chứng tỏ bề sâu của tình cảm. Có thể nói, li khách là hình tượng của văn chương lãng mạn. Về giọng điệu, nhân vật “ta”- cái tôi trữ tình nhà thơ, người ở lại nói với người ra đi, nó khác hẳn lời người đi nói với người ở lại như Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu. Tống biệt hành có nhiều câu thơ là lời trực tiếp của người tiễn đưa. Nhưng lại có nhiều câu thơ chỉ mang tính chất chuyển đổi giữa người ở lại và người ra đi, khổ thơ cuối cùng cũng có sự chuyển đổi giọng điệu tài tình như vậy :

   Người đi? ừ nhỉ, người đi thực !

   Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

   Chị thà coi như là hạt bụi,

   Em thà coi như hơi rượu say.

   Câu thơ “Người đi ? ừ nhỉ người đi thực” là giọng điệu người đưa tiễn. Cái hay là ở chỗ nó lột tả được hai mặt của cảm xúc: người đưa tiễn vừa cảm phục, ngưỡng mộ chí nhớn và quyết tâm lên đường của li khách nhưng mặt khác lại muốn níu kéo bạn ở lại. Chẳng ai muốn có những cuộc chia li. Trong sâu kín nhất của tình cảm có lẽ người đưa tiễn thầm mong đến phút cuối cùng li khách sẽ thay đổi, sẽ nao núng ý chí quyết tâm, nhưng sự thật là li khách đã lên đường. Cho dù nhân vật “ta” đã biết rất rõ việc ra đi của bạn, đã theo dõi những trạng thái cảm xúc và ý chí quyết tâm của li khách “từ chiều hôm trước, sáng hôm nay” mà li khách lên đường vẫn không tránh khỏi bàng hoàng, hụt hẫng (ừ nhỉ? Người đi thực).

   Hai từ thà coi được lặp lại liên tiếp ở ba câu thơ là hai từ rất nhạy cảm, nó dễ gây ra những phản ứng với người đọc. Chủ thể của thái độ “thà coi” là ai ? Muốn khẳng định giọng điệu của ba câu thơ cuối ta cần xem xét hai cách hiểu thường được đưa ra bàn cãi mới đây. Cách hiểu thứ nhất cho rằng li khách quyết ra đi cho nên coi mẹ, chị, em của mình giống như chiếc lá, hạt bụi, hơi rượu để khỏi bị day dứt cõi lòng. Nhưng phần lớn ý kiến bác bỏ cách hiểu như trên và khẳng định đây là lời của li khách muốn nói với người thân xin hãy coi li khách như một cái gì hết sức nhỏ bé, vụt thoáng qua trong gia đình rồi biến mất để mà đừng có luyến tiếc đau khổ nữa. Nếu cho rằng li khách coi mẹ, chị, em của mình tựa như chiếc lá, hạt bụi, hơi rượu để tô đậm chí lớn và quyết tâm ra đi thì ở phần đầu bài thơ ý nghĩa này đã được tô đậm rồi. Hơn nữa, nếu hiểu ý thơ theo cách thứ nhất là vi phạm tính chất nhân bản, vi phạm thô thiển tình cảm nhân đạo của con người, hiểu như thế sẽ nghèo nàn sắc thái thẩm mĩ của bài thơ. Hình ảnh li khách sẽ trở thành phi nhân tính và không thật, không nhất quán về tâm trạng và tình cảm. Một người vô tâm với gia đình và người thân thì không thể là người sâu sắc, càng không thể là người có lí tưởng cao đẹp. Mặt khác ba hình ảnh thơ “chiếc lá bay, hạt bụi, hơi rượu” đều mang tính chất chuyển động nên nó gần gũi tương đồng và gợi mối liên tưởng với người ra đi. Ta đã gặp hình ảnh thơ giống như vậy khi viết về người ra đi trong câu thơ của Nguyễn Bính :

Cha đừng tiếc, mẹ đừng thương

Cầm như đồng kẽm qua đường đánh rơi.

(Hành quân ngang)

   Cách hiểu thứ hai thấu tình đạt lí hơn. Đây là giọng điệu của li khách, giống như lời an ủi những người thân yêu của mình hòng làm vợi bớt phần nào nỗi thương nhớ đau khổ cho họ chăng ?

   Sự độc đáo và thành công của Tống biệt hành là ở chỗ không chỉ khơi dậy không khí của thơ cổ mà cái chính là đã đem đến chất liệu mới cho văn học. Miêu tả thế ra đi của một tráng sĩ theo tinh thần thơ mới. Li khách là nhân vật của văn chương lãng mạn. Đó là con người phi thường nhưng không khác thường, chính những tình cảm đời thường (day dứt, dằn vặt, đau khổ) đã khiến cho li khách càng trở nên cao cả hơn. Con người đó không chỉ có chí nhớn mà còn có tình cảm thắm thiết sâu nặng, không chỉ có lí tưởng cao đẹp mà còn có nhân tính. Thâm Tâm đã tạo nên một hình tượng đẹp và chân thực về con người qua Tống biệt hành. Với hình tượng người tráng sĩ nhà thơ đã hoàn thiện tư tưởng “chí làm trai” của văn học phương Đông với những cảm xúc chân thực và hiện đại. Giữa bản nhạc mang nhiều âm điệu ảo não của thơ mới, Thâm Tâm đã tạo nên một âm điệu hùng tráng và cổ điển riêng, làm phong phú và sâu sắc hơn những phương diện giá trị của phong trào Thơ mới. Và Thâm Tâm đã chứng minh rằng, phát triển có kế thừa truyền thống là một nguyên tắc sáng tác luôn luôn đúng đắn.

III - liên hệ

1. Trong Tống biệt hành, “cánh bè” cắm chặt trên sông là cuộc sống gia đình quẩn quanh, tù túng. Cuộc sống này không phải không có chất thơ : cảnh sắc quê nhà cũng như chị gái, em thơ ở lại nhà được miêu tả bằng những hình ảnh tuyệt vời. Trong bài Lưu biệt, cuộc sống tù túng không thiếu những điều quyến rũ, níu giữ người ra đi : thơ và nhạc, “giọng đàn lưu luyến” và “tiếng cười”, “cố nhân”, “rượu xuân… đượm say mùi cũ”… Nhưng người ra đi vẫn quyết giã từ… Đó là ý nghĩa của câu “Một giã gia đình, một dửng dưng”. Sự “dửng dưng” không thuộc bản tính của người ra đi. Đây chỉ là nỗ lực tâm lí cuối cùng.

   Phong cách bài thơ vừa gợi ra hơi hướng lãng mạn vừa tạo dáng cốt cách trượng phu ở nhân vật người ra đi. Nhưng người ra đi là ai? Một đấng trượng phu có hơi hướng lãng mạn hay một người lãng mạn có dáng dấp trượng phu? Tôi thiên về nhận định sau. Phải nhận rằng trong bài Tống biệt hành có những từ, những điệu bộ và khẩu khí bị quy định bởi tính chất cổ xưa của điệu hành mà tác giả lựa chọn có ý thức làm thể loại cho tác phẩm của mình. Thâm Tâm trước sau là con người của phong trào Thơ mới. Người ra đi là một nhân vật lãng mạn, phần còn lại là văn chương, là cách điệu, là điệu bộ và “trò diễn ngôn từ”. “Đầy hoàng hôn trong mắt trong” là nét lãng mạn tuyệt vời ở nhân vật này. Mà văn chương lãng mạn Việt Nam, cả một thời Thơ mới và Tự lực văn đoàn cũng không tạo được một nét nào tuyệt vời hơn cho nhân vật lãng mạn đương thời.

   Đưa người, ta không đưa qua sông

   Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

   Bóng chiều không thắm, không vàng vọt

   Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

   Tiếng sóng trong lòng ai ? Có thể dễ dàng nhất trí tiếng sóng ở trong lòng người đưa tiễn. Nhưng “đầy hoàng hôn” trong mắt ai? Lời trong bài thơ từ đầu chí cuối là lời của người đưa tiễn, dù người ấy thầm nói với mình hay thầm nói với bạn, thầm nghĩ về mình hay thầm tưởng về bạn… Vậy thì người tiễn chỉ có thể nhìn thấy “hoàng hôn” trong mắt người đi. Bởi lẽ người tiễn (và bất kì ai cũng vậy) không thể nhìn thấy mắt của chính mình (trừ phi buổi tiễn đưa, có mang theo một chiếc gương, chốc chốc lại đưa ra soi).

   Khổ kết thúc bài thơ:

   Người đi? ừ nhỉ, người đi thực!

   Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

   Chị thà coi như là hạt bụi,

   Em thà coi như hơi rượu say.

   Về ba câu cuối có hai cách hiểu khác nhau: (người ra đi) thà coi (mẹ) như chiếc lá bay hay (bà) mẹ thà coi (người con ra đi) như chiếc lá bay và vân vân… ở câu 1 người tiễn đưa thầm nghĩ về người đi thì ba câu tiếp theo hiểu như là người tiễn “nhập cảm” vào người đi để ném ra ba chữ thà sẽ tự nhiên hơn hiểu như là người tiễn lần lượt “nhập cảm” vào “mẹ”, “chị” và “em” và lần lượt buông ra ba chữ “thà”. Với cách hiểu thứ nhất, có chút gì đó “nhẫn tâm”, “khinh bạc” ở người ra đi, điều này ở một “người đàn ông” xem ra có thể chấp nhận được. Với cách hiểu thứ hai, “nhẫn tâm” và “khinh bạc” được gán cho “mẹ già”, “chị gái”, “em thơ”, điều này rất khó chấp nhận về mặt đạo đức cũng như về mặt mĩ học.

   Đọc Tống biệt hành của Thâm Tâm có những cách hiểu rất khác nhau nhưng mọi người đều nhất trí đây là một bài thơ hay. Như thế là thế nào ? “Một sự kiện mà nhiều người biết là bài thơ, một mặt, có lớp ý nghĩa đầu tiên có thể dịch ra được bằng văn xuôi, mặt khác nó sống trong tâm trí người đọc một cuộc sống thứ hai, chính cuộc sống này xác định nó như là một bài thơ” (Merleau Ponty).

(Hoàng Ngọc Hiến, Văn học… gần & xa, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2003)

2. Bài thơ thống nhất một trạng thái cảm xúc từ câu đầu đến câu cuối. Nhưng sự thống nhất lại sinh ra từ những tình thế đối lập gay gắt trong cảnh ngộ, trong tâm lý. Cái thái độ một giã gia đình, một dửng dưng cố che đậy, cố giấu nỗi xót thương mẹ già em dại, hai chị lỡ làng. Ba câu cuối cùng nói như buông xuôi, như nhẹ nhõm để nén một tiếng gào. Cái cảm giác tức tưởi của bài thơ càng dồn xuống lại càng bật lên. Âm điệu rắn rỏi của thể thơ càng thêm sự bùi ngùi của tình huống. Cái tên bài thuần chữ Hán cùng các từ ngữ cổ kính trang trọng đối chiếu với cuộc đi của đời thực, với diễn biến của tâm trạng, chỉ như một sự an ủi nhỏ nhoi, càng làm ta xót thương. Những yếu tố đó đã làm Tống biệt hành thành bài thơ hay và đầy vẻ lạ lùng so với các bài thơ cùng thời

Đọc hiểu Tống biệt hành lớp 11 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 11 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 11. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 

 



#soanbaitap

Soạn bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm lớp 11 - soanbaitap.com

Soạn bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm lớp 11

Soạn bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm thuộc: Bài 35 SGK ngữ văn 11

Câu 1. Nêu những suy nghĩ và cảm xúc riêng của anh (chị) về một bài thơ (hoặc một thiên truyện ngắn) đã học.

I. Phần trắc nghiệm

II. Phần tự luận

1. Nêu những suy nghĩ và cảm xúc riêng của anh (chị) về một bài thơ (hoặc một thiên truyện ngắn) đã học.

Đây là một đề cảm nhận về tác phẩm văn học. Tuỳ từng bài cụ thể, người viết xây dựng dàn ý. Đề bài theo hướng mở (suy nghĩ và cảm xúc riêng) nên người viết có thể tuỳ ý bày tỏ cảm nhận về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, song cũng có thể chỉ trình bày những ấn tượng sâu sắc nhất về một chi tiết nghệ thuật nào đó giá trị nhất trong tác phẩm.

2. Trình bày quan điểm của anh (chị) về quan niệm chọn nghề nghiệp trong tương lai: chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của mình; chọn nghề đang được ưa chuộng trong xã hội hay nhất quyết theo đuổi nghề mà mình yêu tbhch nhất?

Đây là một đề nghị luận về một vấn đề xã hội. Có thể triển khai bài theo những gợi ý sau:

-  Quan điểm về nghề nghiệp mà bạn sẽ lựa chọn là gì? (có thể lựa chọn một trong ba quan điểm đã nêu, miễn là có giải thích thuyết phục. Song quan điểm đúng đắn nhất là: chọn nghề phù hợp với năng lực thực tế của mình).

- Đưa ra những lí do khiến bạn lựa chọn quan điểm đó.

- Bác bỏ những quan điểm sai lầm:

+ Lựa chọn nghề nghiệp mà không suy nghĩ.

+ Lựa chọn nghề nghiệp vượt quá khả năng thực tế của bản thân.

+ Cứ nhất quyết theo đuổi một cách viển vông nghề mà mình vẫn thiết tha yêu thích.

- Bàn luận mở rộng:

+ Cần có định hướng nghề nghiệp sớm để lên kế hoạch thực hiện cho được định hướng, mong ước ấy.

+ Lựa chọn nghề kết hợp giữa sở thích và năng lực thực tế của bản thân.

Soạn bài Kiểm tra tổng hợp cuối năm lớp 11 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 11 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 11. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 



#soanbaitap

Ôn tập phần Tiếng Việt lớp 11 - soanbaitap.com

Ôn tập phần Tiếng Việt lớp 11

Ôn tập phần Tiếng Việt thuộc: Bài 34 SGK ngữ văn 11

Giao tiếp là một trong những cơ sở quan trọng hình thành nên xã hội loài người.

1. Câu 1 trang 120 SGK

a) Giao tiếp là một trong những cơ sở quan trọng hình thành nên xã hội loài người. Muốn giao tiếp được, những người trong cùng một dân tộc cũng như trong các dân tộc khác nhau phải có một phương tiện chung là ngôn ngữ. Phương tiện này giúp cho các cá nhân nói lên những điều mà mình muốn bày tỏ, đổng thời cũng giúp họ lĩnh hội được những lời nói của người khác. Tuy nhiên cái phương tiện ngôn ngữ mà mỗi chúng ta đang sử dụng để bày tỏ hay để lĩnh hội lời người khác ấy không phải là sở hữu riêng của mỗi cá nhân. Nó là tài sản chung của xã hội.

   Tính chung trong ngôn ngữ của cộng đồng được biểu hiện qua những phương diện sau:

- Trong ngôn ngữ, có những yếu tố chung cho tất cả mọi cá nhân trong cộng đồng như: Các âm và các thanh (các phụ âm, nguyên âm, thanh điệu,...); các tiếng - tức các âm tiết do sự kết hợp của các âm và thanh theo những quy tắc nhất định; các từ và các ngữ cố định (thành ngữ và quán ngữ).

- Ngoài những yếu tố chung như trên còn có các quy tắc chung, các phương thức chung. Các quy tắc và phương thức này được hình thành dần trong lịch sử phát triển của một ngôn ngữ và cần được các cá nhân tiếp nhận và tuân theo nếu muốn cho sự giao tiếp với cộng đồng đạt được hiệu quả như mong muốn. Một số quy tắc và phương thức quan trọng của ngôn ngữ như: quy tắc cấu tạo từ, cấu tạo câu, đoạn, văn bản; phương thức chuyển đổi về nghĩa, phương thức sử dụng câu theo lối trực tiếp và gián tiếp; các phương thức ẩn dụ,...

b) Còn lời nói là sản phẩm riêng của mỗi cá nhân, vì:

   Khi giao tiếp, mỗi cá nhân sử dụng ncôn ngữ chung để tạo ra lời nói đáp ứng như cầu giao tiếp. Lời nói (gồm lời nói miệng và ván viết) của mỗi cá nhân vừa được tạo ra bởi các phương thức và những quy tắc chung, lại vừa có những sắc thái riêng mang dấu ấn và những đóng góp cá nhân.

   Cái riêng trong lời nói của cá nhân thường được biểu hiện trước hết qua vẻ riêng trong mỗi giọng nói. Chính vẻ riêng này giúp ta nhận ra giọng nói của người quen ngay cả khi không trực tiếp tiếp xúc với người đó. Vẻ riêng còn thể hiện ở lớp từ mà mỗi cá nhân ưa chuộng và quen sử dụng nhất cũng như ở sự chuyển đổi sáng tạo những từ ngữ chung, quen thuộc trong lớp từ toàn dân Dấu ấn cá nhân trong lời nói cũng thể hiện các từ mới mà cá nhân đó tạo ra hoặc có công tạo ra thói quen sử dụrtg trong cộng đồng.

   Biểu hiện rõ rệt nhất của nét riêng trong lời nói cá nhân là phong cách ngôn ngữ cá nhân. Điều này thấy rõ ở các nhà văn nổi tiếng (ngôn rigữ tác phẩm của họ dẫu vẫn bắt nguồn từ ngôn ngữ toàn dân nhưng lại mang dấu ấn cá nhân, mang tính cá thể, không lẫn với người khác).

2. Câu 2 trang 120 SGK

   Mối quan hệ hai chiều giữa ngôn ngữ chung và lời nói cá nhân thể hiện qua việc sử dụng ngôn ngữ để sáng tạo nên hình tượng bà Tú trong bài Thương vợ của Xú Xương

a) Trong bài thơ, Tú Xương đã sử dụng nhiều yếu tố chung và quy tắc chung của ngôn ngữ toàn dân

- Các từ trong bài thơ đều thuộc ngôn ngữ chung, không có từ nào quá khó hiểu.

- Sử dụng các thành ngữ quen thuộc với toàn dân: một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa.

- Cấc quy tắc kết hợp từ ngữ phổ biến trong ngôn ngữ chung (ví dụ kết hợp từ trong cụm buôn bán ở mom sông = động từ + quan hệ từ + danh từ chỉ vị trí).

- Các quy tắc cấu tạo câu: câu tường thuật tỉnh lược chủ ngữ (6 câu thơ đầu) và các kiểu câu cảm thán (lời chửi) ở câu thơ cuối.

b) Phần cá nhân trong lời nói thể hiện ở:

- Việc lựa chọn từ ngữ. Ví dụ: chọn quanh năm, mà không phải suốt năm, cả năm,..:, chọn nuôi đủ (năm con với một chồng) mà không phải là nuôi cả, nuôi được,...

- Cách sắp xếp từ ngữ rất sáng tạo, ví dụ:

+ Đảo thành ngữ thân cò lặn lội thành lặn lội thân cò (động từ lên trước chủ ngữ, vì thế mà trạng thái hành động của nhân vật được nhấn mạnh hơn rất nhiều, do đó mà sắc thái biểu cảm cũng tăng lên).

+ Thành ngữ mặt nước eo sèo cũng được đảo thành eo sèo mặt nước cũng mang lại những hiệu quả tương tự như trên.

3. Câu 3 trang 120 SGK

   Câu đúng chỉ nội hàm khái niệm Ngữ cảnh là câu:

   Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ làm cơ sở cho việc sử dụng từ ngữ và tạo lập lời nói, đồng thời làm căn cứ để lĩnh hội được nội dung ý nghĩa của lời nói.

4. Câu 4 trang 120 SGK

a) Bối cảnh ra đời của bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu:

   Bài văn được Nguyễn Đình Chiểu viết để tế những nghĩa sĩ hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm ngày 16 - 12 - 1861. Nghĩa quân giết được tên quan hai Pháp và một số lính thuộc địa, làm chủ đồn hai ngày, sau đó bị phản công rồi thất bại. Nghĩa quân hi sinh 20 người. Sự hi sinh vì đại nghĩa này có sức cổ vũ và khích lệ to lớn.

b) Trong bài văn tế có những chi tiết do sự chi phối của ngữ cảnh đem lại

- Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũnq chém rớt đầu quan hai

- Kẻ đâm ngang, người chém nọược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh ; bọn hè trước. lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.

- Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lệ nhỏ.

5. Câu 5 trang 120 SGK

1. Bảng thống kê những nội dung về nghĩa của câu.

Nghĩa sự việc

Nghĩa tình thái

- ứng với sự việc mà câu đề cập đến

- Thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá, thái độ của người nói đối với sự việc.

- Sự việc có thể là hành động, trạng thái, quá trình, tư thế, sự tồn tại, quan hệ,...

- Thể hiện thái độ, tình cảm của người nói đối với người nghe.

- Do các thành phần chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ, khởi ngữ, bổ ngữ của câu biểu hiện.

- Có thể biểu hiện riêng nhờ các từ ngữ tình thái.

6. Câu 6 trang 121 SGK

Tim hiểu hai thành phần nghĩa của câu thứ hai trong lời nói sau đây: Bác Siêu đáp vẩn vơ:

- Hôm nay trong ông giáo cũng có tổ tôm. Dễ họ không phải đi gọi đâu.

(Thạch Lam - Hai đứa trẻ)

   Gợi ý: Trong lời của bác Siêu, ở câu thứ hai có hai thành phần nghĩa.

- Nghĩa sự việc do các thành phần chính biểu hiện (họ không phải đi gọi).

- Nghĩa tình thái biểu hiện ở hai từ: từ đâu thể hiện ý phân trần, bác bỏ ý nghĩ (mong muốn) của chị thằng Tí rằng họ sẽ ở trong huyện ra. Còn từ dễ thể hiện sự phỏng đoán chưa chắc chắn về sự việc (tương đương với có lê).

7. Câu 7 trang 121 SGK

   Ví dụ minh hoạ cho những đặc điểm của loại hình tiếng Việt

Độc điểm loại hình của tiếng Việt

Ví dụ minh hoạ

1. Đơn vị ngữ pháp cơ sở là tiếng (tương đương với âm tiết). Mỗi tiếng về ngữ âni là một âm tiết, còn về nghĩa thì có thể là từ.

- Trời đang mưa: 3 âm tiết, 3 tiếng, 3 từ đơn.

2. Từ không biến đổi hình thái.

- Nó đánh tôi, nhưng tôi không đánh nó.

3. Ý nghĩa ngữ pháp dược biểu hiện nhờ trật tự từ và hư từ.

- Quyển sách này của tôi rất hay.

8. Câu 8 trang 121 SGK

   Bảng đối chiếu những đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ báo chí và phong cách ngôn ngữ chính luận:

Phong cách ngòn ngữ báo chí

Phong cách ngôn ngữ chính luận

1. Tính thông tin thời sự

1. Tính công khai về lập trường chính trị

2. Tính ngắn gọn

2. Tính chặt chẽ của hệ thống lập luận

3. Tính hấp dẫn, lôi cuốn

3. Tính hấp dẫn, thuyết phục

Ôn tập phần Tiếng Việt lớp 11 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 11 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 11. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 

 

 



#soanbaitap

Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận lớp 11 - soanbaitap.com

Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận lớp 11

Luyện tập tóm tắt văn bản nghị thuộc: Bài 34 SGK ngữ văn 11

Thơ mới là phong trào văn học phong phú, một phong trào sáng tạo dồi dào, có nhiều yếu tố tích cực.

1. SGK Ngữ văn 11, tập hai, trang 123 dẫn dự định tóm tắt văn bản Mấy nét về thơ mới trong cách nhìn lại hôm nay của một bạn học sinh với một số nội dung sau:

- Cái buồn của thơ mới không uỷ mị mà chứa nhiều yếu tố tích cực.

- Thơ mới là phong trào văn học phong phú, một phong trào sáng tạo dồi dào, có nhiều yếu tố tích cực.

- Phong trào Thơ mới có nhiều đóng góp về nghệ thuật thơ.

- Thơ mới xứng đáng được mệnh danh là "một thời đại trong thi ca" như Hoài Thanh đã nói.

- Căn cứ vào văn bản gốc, có thể thấy dự định văn bản tóm tắt trên đáy thiếu

- Nội dung: Thơ mới đã đổi mới sự biểu hiện cảm xúc, góp phần vào sự phát triển của tiếng Việt.

2. Thực hành tóm tắt văn bản Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh (phần trích trong SGK)

   Gợi ý:

a)Vấn đề nghị luận: Tinh thần cho thơ mới.

b) Đích của nghị luận: Khắc hoạ tinh thần thơ mới là sự cách tân về thơ, từ cái "ta" chuyển sang cái "tôi" đầy màu sắc cá nhân, là tình yêu tha thiết tiếng Việt.

c) Bố cục và những ý chính của văn bản trích

- Phần mở bài: Câu đầu "Bây giờ hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần thơ mới".

- Phần thân bài gồm các ý sau:

+ Cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới và xác định cách tiếp cận đúng đắn cần phải có.

+ Những biểu hiện của "cái tôi" cá nhân trong thơ mới, "cái tôi" buồn, bế tắc nhưng khao khát với cuộc sống, với đất nước, con người.

+ Tinh yêu, lòng say mê, nâng niu đối với tiếng Việt.

- Phần kết bài

d) Dựa vào kết quả đã tìm trên đây, tự tóm tắt văn bản thành một đoạn văn ngắn (khoáng 5 đến 6 câu).

Luyện tập tóm tắt văn bản nghị luận lớp 11 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 11 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 11. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 



#soanbaitap

Tóm tắt văn bản nghị luận lớp 11 - soanbaitap.com

Tóm tắt văn bản nghị luận lớp 11

Tóm tắt văn bản nghị luận thuộc: Bài 33 SGK ngữ văn 11

Hiện nay, nhiều quốc gia không có nguồn nước, nhiều nơi cũng đang xảy ra tranh chấp nguồn nước.

1. Câu 1 trang 118 SGK1

   Dựa vào nhan đề và phần mở đầu đã cho, có thể xác định chủ đề của văn bản là:

a) Sự đa dạng mà thống nhất của In-đô-nê-xi-a.

b) Xuân Diệu - nhà nghiên cứu, phê bình văn học.

2. Tìm hiểu và tóm tắt vãn bản Xin đừng lãng phí nước (SGK).

a)

- Vấn đề nghị luận là: sự lãng phí nước sạch.

- Đích của văn bản: xin đừng lãng phí nước, hãy tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước quý giá.

b) Các luận điểm của văn bản

- Nước là tài sản thường bị huỷ hoại, lãng phí nhiều nhất.

- Dân số tăng, nguồn nước cung cấp không đủ yêu cầu.

- Một số nước hiện đang thiếu nước, có sự tranh chấp về nguồn nước, tình trạng ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng.

c) Tóm tắt văn bản

   Hiện nay, nhiều quốc gia không có nguồn nước, nhiều nơi cũng đang xáy ra tranh chấp nguồn nước. Dân số tăng nhanh, công nghiệp phát triển làm cho nguồn nước bị ô nhiễm và nhân loại sẽ thiếu nước nghiêm trọng. Hãy bảo vệ nguồn nước, giữ gìn nước cho chúng ta và cho mai sau.

Tóm tắt văn bản nghị luận lớp 11 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 11 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 11. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 



#soanbaitap

Soạn bài Ôn tập phần văn học lớp 11 - soanbaitap.com

Soạn bài Ôn tập phần văn học lớp 11

Soạn bài Ôn tập phần văn học thuộc: Bài 33 SGK ngữ văn 11

Câu 6. Cái đẹp, cái hay, sức hấp dẫn của bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin)?

1. Thơ mới khác với thơ trung đại như thế nào?

Trả lời: 

   Thơ mới khác với thơ truyền thống (thơ trung đại) không chỉ ở "phần xác" của thơ (hình thức) mà chủ yếu là ở "phần hồn" của nó, hay nói như Hoài Thanh là ở "tinh thần của thơ mới" (Một thời đại trong thi ca). Đó là "cái tôi" cá nhân với cách nhìn con người, cuộc đời, thiên nhiên bằng đôi mắt "xanh non", bằng cặp mắt "biếc rờn" (Xuân Diệu). Đó là cách nhìn đời bằng đôi mắt trẻ trung, tươi mới, ngơ ngác trước thiên nhiên và cuộc sống, đồng thời thấm đượm một nỗi buồn cô đơn, bơ vơ giữa cuộc đời, trước không gian mênh mông và thời gian vô tận. Thơ mới khác thơ trung đại không chỉ ở phương diện nghệ thuật (phá bỏ những lối diễn đạt ước lệ, những quy tắc cứng nhắc, những công thức gò bó,...) mà chủ yếu là ở phương diện nội dung (cách nhìn, cảm xúc mới mẻ đối với con người và thế giới). Lời thơ trong thơ mới được tổ chức gần với chuỗi lời nói của cá nhân khác với lời thơ trong thơ trung đại, do bị tính quy phạm chi phối, nên thường nặng tính ước lệ, công thức, cách điệu,...

2. Những nội dung cơ bản và đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà? Làm rõ tính chất giao thời (giữa văn học trung đại và hiện đại) về nghệ thuật của các tác phẩm nói trên.

Trả lời: 

a) Nội dung cơ bản và đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của các bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà

- Lưu biệt khi xuất dương: về nội dung, bài thơ khắc hoạ vẻ đẹp lãng mạn hào hùng, bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng Phan Bội Châu trong buổi ra đi tìm đường cứu nước, vể nghệ thuật, bài thơ nổi bật ở giọng điệu thơ vừa da diết vừa mạnh mẽ, quyết liệt, sục sôi từ đó mà có sức truyền cảm và lôi cuốn người đọc.

- Hầu Trời: Bài thơ này ra đời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX. Vào thời điểm đó, lãng mạn đã là điệu tâm tình chủ yếu của thời đại. Xã hội thuộc địa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh ngang trái, xót đau. Người trí thức có lương tri không thể không chấp nhận nhập cuộc, nhưng chống lại nó thì không phải ai cũng đủ dũng khí để làm. Bất bình nhưng bất lực, người ta chỉ có thể mong ước thoát li, làm thơ để giải sầu. Thơ Tản Đà thời này "đã nói lên đúng cái sầu bàng bạc trong đất nước, tiềm tàng trong tim gan người ta" (Xuân Diệu). Nhưng Tản Đà khác người ở chỗ, ngay từ đầu những năm 20 đã dám mạnh dạn thể hiện bản ngã "cái tôi" của mình với "cái buồn mơ màng, cái cảm xúc chơi vơi" (Xuân Diệu), với khát vọng thiết tha đi tìm một cõi tri âm để có thể khẳng định tài năng, phẩm giá đích thực của mình, bởi chẳng thể nào trông đợi ở "cõi trần nhem nhuốc bao nhiêu sự này". Cái ngông của Tản Đà cũng là ở đó.

   Bài thơ Hầu Trời đã thể hiện được nổi bật hồn thơ cũng như tính cách của Tản Đà - một thi sĩ ung dung tự tại, luôn thích tự do, phóng túng; một con người ý thức được tài năng và giá trị đích thực của mình đồng thời cũng luôn khao khát được khẳng định, được cống hiến, được làm đẹp cho đời.

b) Hai bài thơ dù đều có những nét mới, nhất là ở nội dung cảm xúc nhưng về thể thơ và về thi pháp thì cơ bản vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại. Bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu thể hiện cái "chí làm trai" theo tư tưởng mới khác với "chí làm trai" thời trung đại, song bài thơ vẫn là một bài thất ngôn bát cú Đường luật khá đăng đối, giàu hình ảnh ước lệ, không khác gì một bài thơ cổ. Trong khi đó, Hầu Trời có nhiều cách tân hơn (thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do) nhưng thực ra thì đó vẫn là thể thơ theo lối cổ, cách diễn đạt, dùng từ, xây dựng hình ảnh cũng vẫn mang những dấu ấn văn học trung đại. Tính chất giao thời về nghệ thuật của các tác phẩm nói trên là ở đó.

3. Qua việc phân tích, so sánh các bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu, hãy làm sáng tỏ quá trình hiện đại hóa thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trả lời: 

   Quá trình hiện đại hoá của thơ ca thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 được thể hiện khá rõ qua các bài thơ như Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu, Hầu Trời của Tản Đà, Vội vàng của Xuân Diệu.

- Giai đoạn thứ nhất (từ đầu thế kỉ XX đến khoảng năm 1920), thành tựu chủ yếu của văn học là thơ của các chí sĩ cách mạng, tiêu biểu là Phan Bội Châu. Trong sáng tác của Phan Bội Châu cũng như của nhiều cây bút Hán học yêu nước và cách mạng khác, nội dung tư tưởng đã khác với thơ ca thế kỉ XIX, nhưng về nghệ thuật vẫn thuộc phạm trù văn học trung đại, các tác giả vẫn viết theo thi pháp của thơ trung đại. Điều đó thể hiện rất rõ trong bài thơ Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu. Trong bài này, Phan Bội Châu đã thể hiện lẽ sống mới, quan niệm mới về "chí làm trai" nhưng bài thơ vẫn được viết bằng thi pháp và ngôn ngữ của văn học trung đại.

- Giai đoạn thứ hai (khoảng từ 1920 đến 1930), công cuộc hiện đại hoá văn học đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Văn học giai đoạn này đã đổi mới, có tính hiện đại, nhưng những yếu tố của thi pháp văn học trung đại vẫn tồn tại khá phổ biến, nhất là trong sáng tác thơ.

   Bài Hầu Trời của Tản Đà thể hiện rất rõ tính chất nói trên. Trong Hầu Trời, đã thấy xuất hiện "cái tôi" cá nhân phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực cùa mình và khao khát được khẳng định mình. Qua Hầu Trời, Tản Đà cũng bộc lộ rõ một quan điểm khá hiện đại về nghề văn. Cách chia khổ thơ như Tán Đà đã làm trong bài này chưa từng thấy trong thời kì trung đại. Nhưng "cái tôi" cá nhân phóng túng của Tản Đà vẫn phảng phất tinh thần cái ngông của nhà nho tài tử của thơ ca cuối thời trung đại kiểu Nguyễn Công Trứ, Tú Xương,... Vì vậy, Hầu Trời chưa thể xem là thực sự hiện đại. Tản Đà, qua Hầu Trời và những bài thơ khác của ông, "có thể xem như cái gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc".

- Giai đoạn thứ ba (từ khoảng 1930 đến 1945), nền văn học nước nhà đã hoàn tất quá trình hiện đại hoá với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên mọi thể loại. Phong trào Thơ mới (được khởi lên từ năm 1932) được xem là "một cuộc cách mạng thơ ca" (Hoài Thanh). Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính,... là những bài thơ tiêu biểu, thể hiện rõ những đặc trưng của thơ mới. Đó là tiếng nói nghệ thuật của "cái tôi" cá nhân tự giải phóng hoàn toàn ra khỏi hệ thống ước lệ của thơ ca thời kì trung đại, trực tiếp quan sát thế giới và lòng mình bằng con mắt của cá nhân, đồng thời cảm thấy bơ vơ, cô đơn trước vũ trụ và cuộc đời.

4. Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Tràng giang của Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Tương tư của Nguyễn Bính, Chiều xuân của Anh Thơ.

Trả lời: 

   Nội dung tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ:

a) Vội vàng của Xuân Diệu

- Vội vàng, đúng như cái tiêu đề của nó, là lời giục giã hãy sống hết mình, hãy yêu say từng phút giây của tuổi trẻ, hãy thưởng thức bằng tất cả khát khao những ngon ngọt của cuộc đời.

- Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu. Xuân Diệu ở trái tim sôi sục, ở cặp mắt xanh non háo hức, ở sự khẳng định "cái tôi" trong quan hệ gắn bó với đời, ở nhịp thơ hăm hở, cuống quýt, ở hình ảnh rất táo bạo đầy rẫy cảm giác và có tính sắc dục, ở cú pháp "rất Tây" và lối qua hàng hết sức thoải mái.

b) Tràng giang của Huy Cận

- Tràng giang thấm đẫm một nỗi buồn. Mỗi khổ thơ thực chất là một sự triển khai khác nhau của nỗi buồn đó và thường được gợi lên bằng cách đối lập giữa cái mênh mông cao rộng như vô hạn với cái nhỏ bé, mong manh, ơ bài thơ này, có lẽ Huy Cận không miêu tả cảnh vật theo một trật tự nhất định. Dường như tác giả không có ý định khắc hoạ một bức tranh đầy đủ, hài hoà qua các khổ thơ, mà tất cả chỉ nhằm tô đậm ở người đọc ấn tượng về nỗi buồn đìu hiu, xa vắng trải dài vô tận theo không gian và thời gian.

- Tràng giang có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật.

+ Thể thơ thất ngôn trang nghiêm, cổ kính với cách ngắt nhịp quen thuộc (4/3) tạo nên sự cân đối, hài hoà. Thủ pháp tương phản được sử dụng triệt để: hữu hạn / vô hạn; nhỏ bé / lớn lao; không / có,...

+ Sử dụng thành công các loại từ láy: láy âm (tràng giang, đìu hiu, chót vót, lơ thơ,...), láy hoàn toàn (điệp điệp, song song, lớp lớp,...). Các biện pháp tu từ: nhân hoá, ẩn dụ, so sánh,...

c) Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

- Nội dung bài thơ thể hiện nỗi buồn, niềm khao khát của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người. Bài thơ đẹp như thế, trên thực tế lại được sáng tác khi nhà thơ ở trong một hoàn cảnh thật tối tăm, tuyệt vọng (bệnh tật giày vò, nồi ám ảnh về cái chết, về sự xa lánh của người đời). Điều đó khiến ta thêm thương xót và cảm thông với số phận của tác giả, thêm cảm phục một con người đầy tài năng và nghị lực, con người đã dũng cảm vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để sáng tác ra những vần thơ tài hoa về tình đời, tình người.

   Có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu - tình yêu của Hàn Mặc Tử với Hoàng Thị Kim Cúc. Xuyên qua sương khói hư ảo của tình yêu mơ mộng là tình quê, là tình yêu thiết tha đằm thắm với đất nước, quê hương. Với việc khơi gợi lên tình cảm yêu thương chung của nhiều người như thế, bài thơ diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của bao thế hệ người đọc.

- Ở bài thơ này, tứ thơ bắt đầu với cảnh đẹp thôn Vĩ bên dòng sông Hương, từ đó khơi gợi liên tưởng thực ảo và mở ra bao nhiêu nỗi niềm cảm xúc, suy tư về cảnh và người xứ Huế với phấp phỏng những mặc cảm, uẩn khúc, niềm hi vọng, niềm tin yêu.

   Bút pháp của nhà thơ sử dụng trong bài thơ này kết hợp hài hoà điệu tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình. Cảnh đẹp xứ Huế đậm nét tả thực mà lại có tầm cao tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái lãng mạn. Nét chân thực của cảm xúc làm đậm thêm chất trữ tình.

d) Tương tư của Nguyễn Bính

   Bài thơ thể hiện nỗi nhớ thương đơn phương da diết của một tình nhân. Từ đó, bài thơ gợi sự đáng yêu, đáng quý của tình yêu, đồng thời cũng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người.

   Thơ Nguyễn Bính có một điệu riêng. Bài thơ này cũng vậy. Bằng lối ví von mộc mạc mà duyên dáng mang phong vị dân gian, thơ Nguyên Bính đa đem đến cho người đọc những hình ảnh thân thương cùa quê hương đất nước và một tình người đằm thắm, thiết tha.

e) Chiều xuân của Anh Thơ

   Bài thơ là một bức tranh mùa xuân vào buổi chiều - tiêu biểu cho cảnh xuân nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Bài thơ mạnh ở lối tả. Không tả tỉ mỉ chi tiết mà quan sát rộng, măc dù thê vẫn muốn thâu tóm từ linh hồn của cảnh. Có thể nhận xét chung rằng bức tranh buổi chiều xuân khá yên ả. Thậm chí có phần hơi vắng lặng nữa.

   Bài thơ tả cảnh nhưng lại gợi ra rất rõ cái không khí và nhịp sống muôn đời, ở nông thôn ta thời trước, đó là sự bình yên. Con đò nằm biếng lười, quán vắng, những cánh bướm rập rờn, những đàn trâu thong thả,... tất cả đều có dáng khoan thai. Trong bài thơ, thi sĩ đã sử dụng rất nhiều từ láy để dựng cảnh, hay nói đúng hơn là để gợi cái trạng thái tinh thần của cảnh: mưa thì êm êm, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan rụng tơi bời, đàn sáo mô vu vơ, mấy cánh bướm rập rờn, những trâu bò thong thả,... Trong các từ láy đã nêu, trừ từ tơi bời, các từ láy còn lại đều là những từ láy có tính chất giảm nhẹ: êm êm, vu vơ, rập rờn, thong thả,... và hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động hoặc thì diễn tả trạng thái thụ động thì diễn tả trạng thái đều đều của chủ thể. Rõ ràng trong tổng thể bài thơ, chính sự kết hợp của những từ láy này đã giúp thể hiện nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, yên ả, thanh bình của cảnh chiều xuân cũng như nhịp sống khoan thai nơi đồng quê của tác giả.

5. Tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật của các bài thơ Chiều tối, Lai Tân của Hồ Chí Minh; Từ ấy, Nhớ đồng của Tố Hữu?

Trả lời:

a) Chiều tối của Hồ Chí Minh

   Bài thơ rất tiêu biểu cho thơ trữ tình Hồ Chí Minh: nhà thơ không trực tiếp bộc lộ cảm nghĩ nội tâm mà biểu hiện qua cách cảm nhận hình ảnh, cảnh vật khách quan. Qua bức tranh cảnh vật, ta thấy được những nét đẹp tâm hồn của một nhà thơ - chiến sĩ: lòng yêu thiên nhiên, con người, yêu cuộc sống, phong thái ung dung tự chủ và niềm lạc quan, nghị lực kiên cường vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, tối tăm.

- Nghệ thuật tả cảnh trong bài thơ vừa có những nét cổ điển (bút pháp chấm phá, ước lệ với những thi liệu cũ) vừa có nét hiện đại (bút pháp tả thực sinh động với những hình ảnh dân dã, đời thường). Bài thơ chủ yếu là gợi tả chứ không phải là miêu tả, vì thế mà có thể cảm nhận tính chất hàm súc của thơ rất cao.

- Ngôn ngữ trong bài thơ được sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo. Một số từ ngữ vừa gợi tả lại vừa gợi cảm (quyện điểu, cô vân). Biện pháp láy âm vắt dòng ở câu 3 và câu 4 tạo nhịp thơ khoẻ khoắn. Ngoài ra bài thơ có những chữ rất quan trọng, có thể làm "sáng" lên cả bài thơ, ví như chữ "hồng" trong câu thơ cuối chẳng hạn.

b) Lai Tân của Hồ Chí Minh

- Bài thơ cho thấy hiện trạng đen tối, thối nát của một xã hội tưởng là yên ấm, tốt lành.

- Bài thơ có một cách cấu tứ bất ngờ. Ba câu thơ đầu chỉ thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thơ thứ tư. Nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài. Nó làm bung vỡ tất cả cái ý châm biếm mỉa mai hướng đến sự thối nát đến tận xương tuỷ của cái xã hội Tưởng Giới Thạch.

   Bài thơ cũng in đậm cái bút pháp chấm phá của thơ Đường. Lời thư ngắn gọn, súc tích. Không cầu kì câu chữ, nhưng có thể nói: chỉ với bốn câu thơ ngắn, nhà thơ đã vẽ nên cái bản chất của cả một chế độ xã hội mục nát đến vô cùng. Sức chiến đấu, chất "thép" của bài thơ nhẹ nhàng mà quyết liệt chính là ở đó.

c) Từ ấy của Tố Hữu

   Bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bàng' những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ gợi cảm (nhất là biện pháp tu từ ẩn dụ) và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

   Nhạc điệu của bài thơ trước hết được tạo ra từ thể thơ thất ngôn - vốn mang âm điệu trang trọng. Cách ngắt nhịp trong bài thơ liên tục thay đổi qua các câu thơ, ví dụ: Từ ấy trong tôi/bừng nắng hạ... Hồn tôi/là một vườn hoa lá... Gần gũi nhau/thêm mạnh khối đời... Hệ thống vần cuối của các câu thơ cũng rất phong phú, có sức vang ngân, bởi nó chủ yếu là các âm mở, như: hạ - lá; người - nơi - đời ; nhà - pha,...

d) Nhớ đồng của Tố Hữu

- Bài thơ là niềm yêu quý thiết tha và nỗi nhớ da diết của nhà thơ đối với quê huơng, đồng thời thể hiện niềm say mê lí tưởng và khát khao tự do, khát khao hành động của nhà thơ.

- Bài thơ dùng nhiều hình ảnh ẩn dụ, nhiều biện pháp điệp (điệp từ, điệp cú pháp), điệu thơ nhẹ nhàng, ngôn từ trong sáng, thiết tha, giàu sức lôi cuốn.

6. Cái đẹp, cái hay, sức hấp dẫn của bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin)?

Trả lời:

   Cái đẹp, cái hay và sức hấp dẫn của bài thơ Tôi yêu em (Pu-skin)

- Về nội dung: Tinh yêu là một trong những chủ đề quan trọng trong sáng tác của Pu-skin. Thơ tình yêu của Pu-skin, mà Tôi yêu em là một bài thơ tiêu biểu, thường bắt nguồn từ những cảm xúc cụ thể, chân thực với những trải nghiệm tình cảm sâu xa, do đó, đã thể hiện được những vẻ đẹp đa dạng, tinh tế của thế giới tâm hồn con người. Viết Tôi yêu em, Pu-skin chạm vào mảng đề tài đã trở thành vĩnh cửu, thế nhưng, bài thơ vẫn hay, vẫn đẹp và có sức hấp dẫn không ngờ, ấy là vì qua bài thơ, những cung bậc tình cảm phức tạp, những sắc thái cảm xúc phong phú, những rung động sâu xa và những ấn tượng khó nắm bắt của tình yêu đã được nhà thơ diễn tả một cách hết sức tinh tế, chân thực và cụ thể. Sức hấp dẫn của Tôi yêu em còn thể hiện ở sự chân thành, cao thượng và nhân ái của con người trong tình yêu đôi lứa.

- Về nghệ thuật: Đặc điểm nghệ thuật nổi bật của bài thơ Tôi yêu em là cách sử dụng từ ngữ điêu luyện, ngôn từ giản dị, trong sáng. Bài thơ giàu cảm xúc nhưng lại được thể hiện một cách lắng đọng, suy tư. Bên cạnh đó, các chi tiết cụ thể, sống động và cách nhịp câu thơ cũng được Pu-skin triệt để phát huy sức mạnh, đem lại cho thơ ông sự giàu có, quyến rũ về âm điệu và cảm xúc.

7. Phân tích hình tượng nhân vật Bê-li-cốp trong truyện ngắn Người trong bao (Sê-khốp).

Trả lời:

- Bê-li-cốp là "người trong bao" cả trong sinh hoạt và trong tư tưởng.

+ Trong sinh hoạt: Bê-li-cốp mang ô, kính râm, áo bành tô dựng cổ lên, đi ủng cả khi trời đẹp. Buồng ngủ của Bê-li-cốp chật như cái hộp, cửa đóng kín mít, khi ngủ kéo chăn trùm kín đầu,... Đồ dùng của hắn như: chiếc đồng hồ quả quýt, chiếc dao con,... tất cả đều để trong bao.

+ Trong tư tưởng: Bê-li-cốp chỉ làm theo chỉ thị, mệnh lệnh. Hắn không làm gì để phải động chạm đến ai. Hắn luôn thoả mãn, luôn hài lòng với lối sống cổ lỗ, hủ lậu, kì quái của mình.

- Những "cái bao" chụp lên mọi hành động và suy nghĩ của Bê-li-cốp cho thấy hắn là một con người nhỏ bé, yếu đuối và thảm hại. Y cứ nhởn nhơ, tự nhiên đắm chìm trong quá khứ, trong những xác tín cực kì lạc hậu, đen tối. Bê-li-cốp không hiểu mọi người xung quanh, không hiểu xã hội, cuộc sống đương thời. Đó thực là một kẻ hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong bao, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, sung sướng, hạnh phúc, mãn nguyện trong đó.

- Điều đáng lo sợ là lối sống và con người Bê-li-cốp đã ảnh hưởng mạnh mẽ và dai dẳng đến lối sống và tinh thần của anh chị em trong trường nơi y làm việc, trong cả thành phố nơi y sống như một thứ dịch hạch. Ngay cả khi Bê-li-cốp chết, tính cách và lối sống ấy vẫn tiếp tục tồn tại và gây ảnh hưởng nặng nề đến cuộc sống hiện tại và tương lai của cả dân thành phố, không tài nào thoát ra được. Chính bởi thế mà, thực chất hình tượng Bê-li-cốp không phải là một hiện tượng cá biệt. Toàn bộ hình ảnh con người và tính cách của y là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong cuộc sống của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.

(Tham khảo thêm phần phân tích nhân vật Bê-li-cốp trong bài Nqưởi tronq bao cùng trong sách này).

8. Phân tích nhân vật Giăng Van-giăng trong đoạn trích Người cầm quyền khôi phục uy quyền (Huy-gô).

Trả lời:

   Tập trung phân tích những đặc điểm dưới đây.

- Trong đoạn trích, Giăng Van-giăng trước hết hiện lên qua ngòi bút miêu tả trực tiếp của nhà văn: "Ông bảo Phăng-tin bằng giọng hết sức nhẹ nhàng và điềm tĩnh", khi thì thì thầm hạ giọng...Tất cả những hành động ấy của Giăng Van-giăng đều rất điềm đạm. Nó hoàn toàn đối lập với các hành động của Gia-ve.

- Giăng Van-giăng cũng được miêu tả gián tiếp qua những lời cầu cứu của nhân vật Phăng-tin (điều này thể hiện: hình ảnh Giăng Van-giăng trong mắt của Phăng-tin như là một anh hùng, như là một vị cứu tinh). Giăng Van-giãng còn hiện lên rất đẹp qua cảnh tượng mà bà xơ Xem-pli-xơ đã chứng kiến: "Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin bà trông thấy rõ ràng một nụ cười không sao tả được hiện diện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết".

- Những lời nói, hành động và ý nghĩ của Giăng Van-giăng trong đoạn cuối gợi lên những vẻ đẹp phi thường, lãng mạn. Hình ảnh đó nổi bật lên trên cái ác và cường quyền. Nó là nơi quy tụ và phát tiết của tình thương yêu.

   Trong đoạn trích, trước cường quyền, Giăng Van-giăng khi nhún nhường lúc cương nghị, quyết liệt khiến cái ác phải chùn chân. Nhưng với những con người nhỏ bé, tội nghiệp, ông lại hiện lên lừng lững, dang tay chở che, đùm bọc, gieo niềm tin và tình yêu thương cho họ.

9. Ôn tập về văn nghị luận

   Trong SGK, về văn nghị luận các tác giả có trích tuyển để học ba bài nghị luận chính trị, xã hội: về luân lí xã hội ỏ nước ta (Phan Châu Trinh), bài đọc thêm: Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh), Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng-ghen) và một bài nghị luận văn học: Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh). Khi ôn tập các tác phẩm này, cần nắm được những nội dunơ sau đây:

- Đặc trưng của văn nghị luận: là thuyết phục người đọc bằng lạp luận chặt chẽ, lô eích, bằng lí lẽ sắc bén, luận cứ xác đáng, hùng hồn.

- Những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật:

+ Trích đoạn về luân lí xã hội ở nước ta: Kêu gọi xây dựng nền luân lí xã hội ở nước ta, từ đó thấy được tinh thần yêu nước và tư tưởng tiến bộ của nhà cách mạng Phan Châu Trinh. Trích đoạn thể hiện nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lô gích; dẫn chứng cụ thể, xác thực; giọng văn mạnh mẽ, hùng hồn; cách dùng từ, đặt câu chính xác, biểu hiện lí trí tỉnh táo, tư duy sắc sảo, đạt hiệu quả cao về nhận thức và tư tưởng.

+ Bài Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc áp bức: Phê phán mạnh mẽ những kiểu học đòi chạy theo "Tây hoá", từ đó kêu gọi việc học hỏi, tiếp thu văn hoá châu Âu phải dựa trên tinh thần chọn lọc. Tác giả cũng đồng thời khẳng định tiếng Việt không nghèo nàn; chúng ta cần phải xem nó là "người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập" của dân tộc, "là yếu tố quan trọng nhất" giúp giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của thực dân. Văn phong của bài chính luận trong sáng, hàm súc, thể hiện một tư duy văn hoá có chiều sâu đồng thời cũng tràn đầy nhiệt huyết.

+ Bài Ba cống hiển vĩ đại của Các Mác: Khẳng định những đóng góp quan trọng của Các Mác đối với lịch sử nhân loại và biểu lộ tình cảm tiếc thương của những người cộng sản trước sự ra đi của bậc tiền bối. Giá trị nghệ thuật của bài nghị luận này là hệ thống lí lẽ chặt chẽ, sắc sảo, đặc biệt là thủ pháp so sánh tầng bậc được sử dụng trở đi trở lại, góp phần làm nổi bật những thành tựu của Mác đối với toàn thế giới.

+ Trích đoạn Một thời đại trong thi ca: Là quan niệm đúng đắn của Hoài Thanh trong việc định nghĩa thơ mới tập trung vào vấn đề cốt yếu là "tinh thần thơ mới". Bài nghị luận có cách luận giải sắc sảo, chặt chẽ, lại có những nét tài hoa, hóm hinh thê hiện niềm say mê, trân trọng và những cảm xúc thẩm mĩ tinh tế của tác giả Hoài Thanh.

Soạn bài Ôn tập phần văn học lớp 11 được đăng ở chuyên mục Ngữ văn 11 và biên soạn theo sách ngữ văn lớp 11. Được hướng dẫn biên soạn bởi các thầy cô giáo dạy Giỏi Ngữ Văn tư vấn, nếu thấy hay hãy chia sẻ và comment  để nhiều bạn khác cùng học tập cùng.

 



#soanbaitap