I. Sự chuyển biến của nền nông nghiệp thời Lý
- Ruộng đất trong cả nước trên danh nghĩa đều thuộc quyền sở hữu của vua. Nhưng thực tế, phần lớn ruộng đất lại do nông dân canh tác. Hằng năm, dân làng chia nhau ruộng đất công để cày cấy và nộp thuế cho nhà vua.
- Vua Lý lấy một số đất công làm nơi thờ phụng, tế lễ hoặc phong cấp cho con cháu, những người có công, làm các đền chùa.
- Nhà nước có những biện pháp khuyến khích nông nghiệp phát triển:
+ Cày tịch điền
+ Khẩn hoang, đào kênh mương, khai ngòi, đắp đê phòng ngập lụt.
+ Cấm giết hại trâu, bò.
- Nhiều năm mùa màng bội thu:
+ Năm 1016 (triều Lý Thái Tổ).
+ Năm 1030, 1044 (triều Lý Thánh Tông)
+ Năm 1131 (triều Lý Nhân Tông)
+ Năm 1139, 1140 (triều Lý Anh Tông)
II. Thủ công nghiệp và thương nghiệp thời Lý
- Thủ công nghiệp rất phát triển với những nghề:
+ Uơm tơ, dệt lụa, làm gốm, đồ trang sức, làm giấy, in bản gỗ, …
+ Nhiều công trình: chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên (Hà Nội), vạc Phổ Minh (Nam Định).
- Thương nghiệp phát đạt, Việc buôn bán trao đổi trong nước và ngoài nước được mở mang hơn trước.
+ Buôn bán ở hải đảo, miền biên giới Lý – Tống phát triển, lập nhiều khu chợ tập trung để nhân dân đến trao đổi, buôn bán.
+ Vân Đồn buôn bán tấp nập, sầm uất, có vị trí tự nhiên rất thuận lợi cho thuyền bè qua lại và trú đỗ.
=> Nhờ sự phát triển của nền nông nghiệp, công thương nghiệp mà nhân dân ta có đủ khả năng để xây dựng nền kinh tế tự chủ, phát triển.
III. Những thay đổi về mặt xã hội thời Lý
- Giai cấp thống trị:
+ Vua quan là bộ phận chính trong giai cấp thống trị.
+ Một số hoàng từ, công chúa, quan lại được nhà nước phong cấp ruộng đất đã trở thành địa chủ.
+ Một số ít dân thường, do có nhiều ruộng, cũng trở thành địa chủ có thế lực ở địa phương.
- Giai cấp bị trị:
+ Nông dân chiếm đa số trong dân cư. Họ là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Các đinh nam được chia ruộng theo tục lệ của làng xã và phải làm nghĩa vụ cho nhà nước. Những nông dân nghèo phải cày ruộng, nộp tô cho địa chủ, có người phải rời bỏ quê hương đi khai hoang, lập nghiệp ở nơi khác.
+ Nô tì vốn là tù binh hoặc bị tội nặng, nợ nần hoặc tự bán thân; họ phải phục vụ trong cung điện hoặc các nhà quan.
+ Ngoài ra, trong xã hội còn có người làm nghề thủ công, buôn bán. Họ sống rải rác ở các làng, rèn nông cụ, sản xuất các đồ dùng cần thiết hàng ngày và trao đổi cho nhau. Họ phải nộp thuế và làm nghĩa vụ với nhà vua.
IV. Giáo dục và văn hóa thời Lý
* Giáo dục, tư tưởng
- Năm 1070: Nhà Lý dựng Văn Miếu ở Thăng Long để thờ Khổng Tử và là nơi dạy học cho các con vua.
- Năm 1075, khoa thi đầu tiên được mở để tuyển chọn quan lại.
- Năm 1076: mở Quốc tử giám cho con em quý tộc đến học. Sau đó, nhà Lý mở rộng cho con em quan lại và những người giỏi trong nước vào đây học tập.
- Tổ chức một số kì thi.
=> Nhà Lý đã quan tâm đến giáo dục, khoa cử song chế độ thi cử chưa có nền nếp, quy củ, khi nào nhà nước có nhu cầu mới mở khoa thi.
- Văn học chữ Hán bước đầu phát triển.
- Dựng chùa tháp, tô tượng, đúc chuông, dịch kinh, soạn sách Phật.
=> Đạo Phật rất phát triển.
* Văn hóa
- Loại hình nghệ thuật dân gian phát triển: chèo, múa rối, đá cầu, đua vật, …
- Kiến trúc: Tháp Chương Sơn (Nam Định), chuông chùa Trùng Quang (Bắc Ninh) => Có quy mô lớn và mang tính cách độc đáo.
- Điêu khắc tinh vi: hình rồng, sen, … Rồng mình trơn, toàn thân uốn khúc, uyển chuyển như một ngọn lửa. Đây là hình tượng nghệ thuật độc đáo, phổ biến thời Lý.
=> Phong cách nghệ thuật đa dạng, độc đáo và linh hoạt của nhân dân ta thời Lý đã đánh dấu sự ra đời của một nền văn hoá riêng biệt của dân tộc - văn hoá Thăng Long.
Soạn sử 7 tổng hợp gồm các bài trả lời câu hỏi in nghiêng giữa bài và giải các bài tập trong sách giáo khoa lịch sử 7, các bài giải lịch sử 7 chi tiết nhất giúp các bạn học tốt sinh học lớp 7
#soanbaitap
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét